• Featured

    Windows 8 Could Have Nine Different Backgrounds and Editions

  • Featured

    Don't miss these 10 Things if you are going for Picnic.

  • Articles

    iPhone 6 Will Look Like

  • Articles

    Solar Powered UAVs To Replace Satellites

  • Sunday, July 27, 2014

    Ảo thuật là gì 

    Ảo thuật là nghệ thuật sử dụng một phương pháp, cách thức, đạo cụ, người hỗ trợ ... để khiến cho người xem tin rằng mình đang thấy một điều không thể xuất hiện trong đời thường, một điều tựa như là phép thuật. Mục đích chính của các màn ảo thuật đó chính là giải trí, tạo nên tiếng cười và niềm vui cho người xem. Ảo thuật đòi hỏi người chơi phải có niềm đam mê, quyết tâm, kiên trì tập luyện và quan trong nhất là phải sáng tạo! Ảo thuậtđã được thế giới công nhận là bộ môn nghệ thuật thứ 8 của nhân loại! Ảo thuật được phân loại theo một vài tiêu chí. Dựa vào tính chất của trò diễn, có thể phân loại thành ba dạng: ảo thuật đen, ảo thuật trắng và ảo thuật fakir. Cũng có thể phân loại ảo thuật theo đặc điểm của sân khấu: sân khấu vuông, khán giả xem một mặt; sân khấu tròn, khán giả xem ba hoặc bốn mặt; sân khấu thính phòng, các đạo cụ nhỏ thích hợp với số ít khán giả. Ngoài ra còn có cách phân loại theo cỡ đạo cụ, hình dáng đạo cụ, kiểu biến hóa...[1]
    Các ảo thuật gia không chỉ cần giỏi về kỹ xảo mà còn cần khéo léo, biết cách hấp dẫn khán giả, kết hợp các yếu tố tâm lý...[1]Điều đó cũng đồng nghĩa là một tiết mục ảo thuật hay

    Ảo thuật – Vài điều nên biết

    Ảo thuật hiện này khá phổ biến ở Việt Nam. Tuy nhiên không phải ai cũng biết rõ ảo thuật là gì, ý
    nghĩa, nguồn gốc, mục đích của ảo thuật! Thông qua bài viết này, mình sẽ giới thiệu cho bạn đôi nét về ảo thuật và một số ảo thuật gia nổi tiếng thế giới để bạn có thể nắm rõ hơn và hiểu hơn về bộ môn ảo thuật. Mong rằng ảo thuật sẽ ngày càng phát triển hơn ở Việt Nam, đem đến nhiều tiếng cười, niềm vui và nhiều phép màu hơn cho mọi người!

    Lịch sử phát triển và nguồn gốc của Ảo Thuật 

    Ảo thuật không phải chỉ đơn giản là những thủ thuật – đó là một môn khoa học về việc định hình những gì chúng ta nhìn thấy. Hiện nay, các nhà khoa học đã và đang đào sâu nghiên cứu những vấn đề này. Vậy theo bạn ảo thuật là gì?
    Tháng 12 năm 1856, trước tình hình bạo loạn ngày càng gia tăng, Napoleon III đã phái Jean-Eugene Robert-Houdin đến Angiêri. Robert-Houdin không phải là một tướng tài, cũng chẳng phải nhà ngoại giao giỏi thực sự, ông chỉ là một ảo thuật gia được biết đến như là “cha đẻ” của nền ảo thuật hiện đại. Nhiệm vụ của ông là chống lại các thầy tu Hồi Giáo và các thầy phù thuỷ người Angiêri, những người đã “dùng ma thuật” để thuyết phục người dân Angiêri của thánh Allah chống lại những luật lệ của nước Pháp.
    Robert-Houdin, “cha đẻ” của nền ảo thuật hiện đại đang trình diễn  
    một tiết mục ảo thuật
    Một sĩ quan thực dân Pháp đã tập trung những khán giả là những thủ lĩnh người Ả rập lại để xem Robert-Houdin trình diễn một tiết mục mà ngày nay đã trở nên quen thuộc với khán giả: Từ một chiếc mũ, ông đã lấy ra được những quả đạn súng thần công, ông đưa được những ngọn nến đang cháy ra khỏi môi trường không khí, và với một cái chén bạc hoàn toàn không có gì bên trong ông đã rót ra được hết cốc cà phê này đến cốc cà phê khác.
    Trong cuốn hồi kí của mình, Robert-Houdin kể lại rằng ông đã dùng bùa mê để doạ những tên thủ lĩnh kia. Ông xuất hiện trên sân khấu với một bộ ngực bằng gỗ và một cánh tay bằng kim loại. Sau đó, ông chọn một thanh niên lực lưỡng trong số khán giả đứng xem, nhờ anh ta nâng một cái hộp lên. Người này thực hiện việc đó một cách dễ dàng. Sau đó, bằng những động tác khua tay làm phép, Robert-Houdin đã thông báo cho mọi người rằng sức mạnh của người thanh niên đã bị lấy đi hết. Tiếp theo, ông yêu cầu người thanh niên nắm chặt tay, cầm và thử nhấc cái hộp lên một lần nữa nhưng kết quả là cái hộp không hề nhúc nhích cho dù anh ta đã hết sức cố gắng để nâng nó lên. Sự thật của màn trình diễn này là người trợ lý của Robert-Houdin đã đặt một thanh nam châm cực mạnh ngay dưới sàn của sân khấu. Trong khi đó trên sân khấu, chàng thanh niên tội nghiệp này vẫn đang thở dài thất vọng vì không sao nâng được chiếc hộp. Và rồi sự thất vọng của anh ta chuyển dần thành tuyệt vọng khi trợ lý của Robert-Houdin được ra hiệu truyền luồng xung điện cực mạnh qua cái tay cầm làm cho chàng thanh niên thét lên một tiếng kinh hãi trên sân khấu. Các thủ lĩnh thực sự kinh ngạc, và cuộc nổi loạn bị dập tắt.
    Câu chuyện về tài ngoại giao bằng ảo thuật của Robert-Houdin đã được nhắc đến rất nhiều trong các câu chuyện truyền thuyết về ảo thuật. Đó là trường hợp điển hình duy nhất được ghi chép lại để kể về một ảo thuật gia đã từng làm thay đổi cả tiến trình vận động của thế giới. Nói tóm lại, ảo thuật không phải là một phương thức để lãnh đạo thế giới, mà đơn giản là những màn trình diễn nhằm mục đích giải trí mà thôi.
    Tuy nhiên, trong một vài năm gần đây, một vài nhà nghiên cứu đã bước đầu nhận ra rằng ảo thuật đại diện cho một cái gì đó cao xa hơn: một sự hiểu biết sâu xa hơn về bộ óc của con người nhưng chưa được khai thác.
    Tại một cuộc hội nghị lớn được tổ chức ở Las Vegas hồi năm ngoái và trên một quyển tạp chí khoa học được phát hành trong thời gian gần đây đã diễn ra một cuộc tranh cãi gay gắt giữa các nhà tâm lý học khi có ý kiến cho rằng các ảo thuật gia càng có thâm niên thì càng khôn ngoan hơn và có thể dễ dàng đánh lừa người khác hơn. Các nhà tâm lý học đã và đang tham gia vào việc nghiên cứu để hiểu biết thêm mọi ngõ ngách của đời sống con người và thế giới xung quanh họ. Qua việc nghiên cứu về cơ chế của các căn bệnh để nắm biết được hoạt động của hệ thống miễn dịch trong cơ thể người, các nhà tâm lí học tin rằng việc nghiên cứu cách mà nhà ảo thuật tài năng làm gián đoạn hệ thống giác quan có thể cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về những mối liên hệ trong hệ thống này. Susana Martinez-Conde – nhà khoa học về thần kinh làm việc tại viện thần kinh học, đồng thời là một cộng tác viên trong công trình nghiên cứu này đã phát biểu trên tờ Nature Reviews Neuroscience tháng trước rằng, “Tôi nghĩ rằng các ảo thuật gia và các nhà thần kinh học đều tập trung vào những vấn đề tương tự nhau. Nhưng điểm khác biệt là trong khi các nhà thần kinh học chỉ mới bắt đầu công việc nghiên cứu trong vài thập kỉ thì các ảo thuật gia đã làm việc này trong suốt hàng thế kỉ, thậm chí là hàng thiên niên kỉ. Những việc mà các nhà ảo thuật gia làm được trước kia chính là những gì mà chúng ta làm ngày nay với những kĩ thuật tinh vi và công nghệ hiện đại”.
    Giống như những gì mà các ảo thuật gia đã biết từ lâu và các nhà thần kinh học đang dần dần khám phá ra, sự nhận thức của con người là một cơ chế phức tạp, đầy những chỗ trống và dễ dàng bị đánh lừa. Sự hợp tác giữa khoa học và ảo thuật còn rất non nớt và những phát hiện chỉ mới dừng lại ở mức cơ bản nhưng lại rất thu hút được sự quan tâm của rất nhiều học giả: hồi tháng Giêng vừa qua, viện hàn lâm khoa học New York đã mời một ảo thuật gia tên là Apollo Robbins đến để trình bày đề tài khoa học về ảo giác, và một nhóm các ảo thuật gia khác cũng đang chuẩn bị cho bài diễn thuyết của mình trong cuộc họp hàng năm của Hiệp hội các nhà khoa học thần kinh.
    Trong khi sự hiểu biết cơ chế tập trung chú ý của bộ não người vẫn còn hạn chế, thì việc nhận thức tốt hơn về cơ chế ấy sẽ đem lại vô số những ứng dụng hữu ích, từ việc lắp đặt những chiếc đồng hồ an toàn hơn cho tới những mẩu quảng cáo hấp dẫn hơn- ngay cả ảo thuật cũng phát triển tốt hơn.
    Thành công của một màn ảo thuật nhiều khi chỉ đơn giản là thu hút sự chú ý của khán giả và làm lệch hướng- chẳng hạn tập trung sự chú ý của khán giả vào tay phải đang khua cây đũa thần, trong khi tay trái lại bí mật giấu quả bóng vào túi quần hay lấy một con bài ra khỏi tay áo. Những màn trình diễn ảo thuật thực sự là một kiệt tác của nghệ thuật đánh lạc hướng: họ đánh lừa ta bằng những màu sắc sặc sỡ và những vật sáng chói. Nhiều nhà ảo thuật khiến khán giả thích thú với màn biểu diễn của họ chỉ với những luồng khói hay những âm thanh thôi miên liên tục được tạo ra khi họ biểu diễn.
    Nhiều năm trước, các nhà khoa học so sánh nhận thức như một cái máy quay phim, có thể tái hiện lại thế giới một cách đầy đủ và chi tiết. Tuy nhiên, trong suốt một thập kỉ qua, ngày càng có nhiều tranh cãi về cách lập luận này. Một trong số những nội dung tranh cãi ấy là: con người có xu hướng không cảm nhận được những gì đang xảy ra ngay trước mắt mình. Daniel Simmons, chuyên viên tâm lý tại trường đại học Illinois, vào cuối thập niên 1990 đã thực hiện hàng loạt những nghiên cứu, mà đến nay vẫn còn rất nổi tiếng, để chứng minh cho sự hạn chế về khả năng trì nhận này. Trong một nghiên cứu của mình, ông đã chỉ ra rằng một số người khi được một người khác bắt chuyện để hỏi đường, trong quá trình trò chuyện với nhau, ông đã đánh tráo người hỏi đường bằng một người khác và tiếp tục nói chuyện, thì chỉ có một nửa trường hợp phát hiện được sự đánh tráo.
    Trong một nghiên cứu khác, một nhóm người được xem một đoạn băng của hai đội bóng, một đội mặc áo màu đen và một đội mặc áo màu trắng, lần lượt thực hiện những pha chuyền bóng với một quả bóng rổ. Yêu cầu dành cho nhóm người này là theo dõi và đếm số lượt chuyền bóng mà một trong hai đội đã thực hiện. Sau khi xem xong, một nửa trong số họ nói rằng họ phát hiện trong đoạn phim ấy có một người phụ nữ mặc bộ đồ hình con khỉ gorila đi ngang qua, dừng lại và vỗ ngực. Từ những cuộc thí nghiệm như thế, trong một thập kỷ qua đã có những cách nhìn nhận mới, khả năng tri nhận của đôi mắt không giống một máy camera, mà nó giống một tia sáng vụt qua khung cảnh lờ mờ. Trong một khoảnh khắc nào đó, ta chỉ có thể thấy được những chi tiết và màu sắc nằm trong một khoảng nhỏ mà ta đang tập trung vào. Phần hình ảnh còn lại mà ta có được là nhờ sự kết hợp từ trí nhớ, sự phán đoán và hình ảnh từ thực tế. Chúng ta cảm nhận thế giới xung quanh chúng ta bằng cách xây dựng nó một cách tích cực và liên tục.
    Theo Ronald A. Rensink, một giáo sư trong lĩnh vực khoa học máy tính và tâm lý tại trường Đại học Bristish Colombia, đồng thời là đồng tác giả bài báo về ảo thuật và tâm lý được đăng trong mục những xu hướng và khoa học tri nhận cho rằng: “Hình ảnh của thế giới trong bộ óc của chúng ta là một thế giới ảo. Đó là một ảo giác thông minh”.
    Lợi ích của những lối tri nhận này là cho phép chúng ta tạo ra những hình ảnh cực kì đầy đủ về thế giới xung quanh mặc dù độ phân giải của hệ thần kinh hai mắt chúng ta chỉ ngang bằng với độ phân giải của một chiếc camera gắn trên những chiếc điện thoại di động. Chẳng hạn như chúng ta không cần phải phí thời gian để quan sát tỉ mỉ từng chiếc xe hơi trên đường cao tốc chỉ để biết chắc rằng đó có thực sự là những chiếc xe hơi hay chỉ để biết liệu chúng đang chạy hay không – bộ não của chúng ta có thể dễ dàng nhận ra được những điều đó nhờ hình ảnh của hàng ngàn chiếc xe mà chúng ta đã từng nhìn thấy trong đời.
    Teller, một thành viên trong bộ đôi nổi tiếng Penn & Teller và là một trong năm ảo thuật gia đồng tác giả công trình nghiên cứu Nature Reviews Neuroscience, nói : “Trong ảo thuật, các ảo thuật gia có xu hướng nắm lấy những yếu tố làm cho họ trở thành những người thông thái và đồng thời lật tẩy những yếu tố chống lại họ”.
    Sự đánh lạc hướng được hiểu là công cụ đơn giản nhất của các nhà ảo thuật – chúng ta không nhìn thấy một thứ gì đó đơn giản là bởi vì ta đang không nhìn vào nó. Martinez-Conde đặc biệt hứng thú với nghệ thuật đánh lạc hướng và những thao tác nhất định được sử dụng để thu hút và giữ sự chú ý của chúng ta. Robbins, ảo thuật gia biểu diễn màn móc túi và cũng là đồng tác giả công trình nghiên cứu Nature Neuroscience, đã phát hiện ra rằng những cử động theo đường cong sẽ thu hút sự chú ý dễ dàng hơn là những cử động theo đường thẳng: “Những cử động theo đường cong sẽ thu hút sự chú ý nhiều hơn. Tôi sử dụng cách ấy khi không còn một xu nào dính túi”.
    Martinez-Conde rất hứng thú với phát hiện đặc biệt này và cho rằng sự thu hút nhất định nào đó của những chuyển động cong có thể là bởi vì người xem quan sát chúng không dễ như khi quan sát những chuyển động nhanh và thẳng. Sự thật là những chuyển động cong thường đòi hỏi nhiều sự chú ý và tập trung cao độ hơn.
    Tuy nhiên, những hiệu quả khác của phát hiện còn đáng ngạc nhiên hơn. Nghiên cứu về đường đi của mắt cho thấy rằng chủ thể có thể nhìn thấy đối tượng mà không cần phải nhìn trực tiếp vào đối tượng ấy. Nạn nhân còn sống sót sau các vụ tai nạn ô tô cũng công nhận điều này. Hoặc, với một kích thích nhỏ nào đó, một người có thể nhìn thấy một vật gì đó trong khi xung quanh chẳng hề có vật đó.
    Thủ thuật căn bản nhất củà các nhà ảo thuật có thể học được đó là tạo ra ảo giác về sự biến mất của quả bóng. Thủ thuật ấy như sau: anh ta liên tục ném một quả bóng lên không trung rồi bắt lấy nó. Và trong lần ném cuối cùng, quả bóng đột nhiên biến mất. Sự thật là nhà ảo thuật đã diễn kịch trong cú ném cuối cùng bằng cách giấu quả bóng trong tay, trong khi mắt vẫn đang giả vờ chăm chú theo chuyển động đi lên tưởng tượng của quả bóng.
    Kĩ năng này rất dễ hiểu, nhưng bản thân hiện tượng này thì không. Nếu làm đúng, thủ thuật này sẽ khiến người xem tưởng rằng quả bóng bay lên trong không trung và biến mất ở đường bay cuối cùng ấy. Như Rensink đã chỉ ra, đó là một thứ gì đó không phải chỉ đơn giản là đánh lạc hướng khán giả – mà đó là một cách giải thích tại sao việc đưa não của chúng ta vào trạng thái ảo giác lại dễ dàng đến thế. Các nhà khoa học tri nhận cũng chưa tìm ra được một lời giải thích nào thấu đáo cho hiện tượng này. Hiện tại, các nhà khoa học tri nhận nghiên cứu về lĩnh vực ảo thuật cũng chỉ dám giới hạn nghiên cứu của mình trong những ảnh hưởng đơn giản và vấn đề cơ bản được đặt ra. Rensink đã phác thảo ra một bảng tuần hoàn các hiệu ứng của sự chú ý bao gồm: những phương pháp để thu hút sự chú ý, phương pháp đánh lạc hướng và phương pháp làm cho người xem không nhìn thấy được những gì đang hiện hữu ngay trước mắt họ. Ông cho rằng bảng phân loại này không chỉ có ích cho các ảo thuật gia. Việc kiểm soát và điều khiển sự chú ý cũng rất cần thiết cho nhiều lĩnh vực khác. Buồng lái của phi công và những biển hiệu trên đường cũng cần được thiết kế chuẩn hơn, các vệ sĩ nên được đào tạo để có tính cảnh giác cao hơn, những đồ thị trên máy vi tính nên được làm cho sinh động hơn, việc giảng dạy cũng nên ít tính bắt buộc hơn. Tuy nhiên, cho dù công trình nghiên cứu này không được thông qua đi chăng nữa thì những nguyên tắc này vẫn có giá trị trong việc nhận biết được những khoảng trắng về những giới hạn trong nhận thức của con người. Cũng giống như những khán giả của Robert Houdin đã từng bị thôi miên và bị làm cho hoảng sợ chỉ vì một thanh nam châm, ngày nay chúng ta cũng dễ dàng bị đánh lừa và thậm chí là cũng có thể rơi vào tình cảnh giống như thế, nếu như chúng ta không có được những hiểu biết này.
    Daniel Simons – một nhà khoa học tri thức, nói: “Vấn đề cốt yếu là phải hiểu rõ những giới hạn của bản thân mình. Thực tế, hầu hết mọi người đều không hiểu được rằng việc kéo dài một cuộc điện thoại trong khi đang lái xe sẽ gây những ảnh hưởng không tốt đến việc lái xe”.
    Theo như Teller, ảo thuật đóng vai trò như một vật gợi nhớ tốt hơn bất cứ loại hình nào khác. Điều đó giải thích tại sao mặc dù những thủ thuật trong ảo thuật là tương đối tầm thường nhưng lại lại có thể khiến khán giả kinh ngạc và thích thú đến thế.
    Ông cho rằng: “Vấn đề căn bản mà chúng ta làm mỗi ngày là xác định xem đâu là thực tại và hiểu được những tín hiệu đập vào mắt ta có ý nghĩa gì. Chúng ta nói: “Đó là một cái hàng rào, tôi không được phép bước chân qua nó”, hay: “Kìa, hình như có một chiếc xe ôtô đang chạy đằng kia phải không? Tôi có thể quan sát được những gì? Ồ không, đó chỉ là một chiếc xe đạp mà thôi”.
    Điều gì khiến con người đam mê với ảo thuật? Ông tin rằng, đó chỉ là vì sự hiểu biết về nó còn mập mờ. “Người ta nhận ra rằng, cách tốt nhất để hiểu được sức mạnh của những mánh khoé trong ảo thuật là tự mình làm được những điều đó”.Ảo thuật không phải chỉ đơn giản là những thủ thuật – đó là một môn khoa học về việc định hình những gì chúng ta nhìn thấy. Hiện nay, các nhà khoa học đã và đang đào sâu nghiên cứu những vấn đề này. Vậy theo bạn ảo thuật là gì?
    Tháng 12 năm 1856, trước tình hình bạo loạn ngày càng gia tăng, Napoleon III đã phái Jean-Eugene Robert-Houdin đến Angiêri. Robert-Houdin không phải là một tướng tài, cũng chẳng phải nhà ngoại giao giỏi thực sự, ông chỉ là một ảo thuật gia được biết đến như là “cha đẻ” của nền ảo thuật hiện đại. Nhiệm vụ của ông là chống lại các thầy tu Hồi Giáo và các thầy phù thuỷ người Angiêri, những người đã “dùng ma thuật” để thuyết phục người dân Angiêri của thánh Allah chống lại những luật lệ của nước Pháp.
    Robert-Houdin, “cha đẻ” của nền ảo thuật hiện đại đang trình diễn
    một tiết mục ảo thuật
    Một sĩ quan thực dân Pháp đã tập trung những khán giả là những thủ lĩnh người Ả rập lại để xem Robert-Houdin trình diễn một tiết mục mà ngày nay đã trở nên quen thuộc với khán giả: Từ một chiếc mũ, ông đã lấy ra được những quả đạn súng thần công, ông đưa được những ngọn nến đang cháy ra khỏi môi trường không khí, và với một cái chén bạc hoàn toàn không có gì bên trong ông đã rót ra được hết cốc cà phê này đến cốc cà phê khác.
    Trong cuốn hồi kí của mình, Robert-Houdin kể lại rằng ông đã dùng bùa mê để doạ những tên thủ lĩnh kia. Ông xuất hiện trên sân khấu với một bộ ngực bằng gỗ và một cánh tay bằng kim loại. Sau đó, ông chọn một thanh niên lực lưỡng trong số khán giả đứng xem, nhờ anh ta nâng một cái hộp lên. Người này thực hiện việc đó một cách dễ dàng. Sau đó, bằng những động tác khua tay làm phép, Robert-Houdin đã thông báo cho mọi người rằng sức mạnh của người thanh niên đã bị lấy đi hết. Tiếp theo, ông yêu cầu người thanh niên nắm chặt tay, cầm và thử nhấc cái hộp lên một lần nữa nhưng kết quả là cái hộp không hề nhúc nhích cho dù anh ta đã hết sức cố gắng để nâng nó lên. Sự thật của màn trình diễn này là người trợ lý của Robert-Houdin đã đặt một thanh nam châm cực mạnh ngay dưới sàn của sân khấu. Trong khi đó trên sân khấu, chàng thanh niên tội nghiệp này vẫn đang thở dài thất vọng vì không sao nâng được chiếc hộp. Và rồi sự thất vọng của anh ta chuyển dần thành tuyệt vọng khi trợ lý của Robert-Houdin được ra hiệu truyền luồng xung điện cực mạnh qua cái tay cầm làm cho chàng thanh niên thét lên một tiếng kinh hãi trên sân khấu. Các thủ lĩnh thực sự kinh ngạc, và cuộc nổi loạn bị dập tắt.
    Câu chuyện về tài ngoại giao bằng ảo thuật của Robert-Houdin đã được nhắc đến rất nhiều trong các câu chuyện truyền thuyết về ảo thuật. Đó là trường hợp điển hình duy nhất được ghi chép lại để kể về một ảo thuật gia đã từng làm thay đổi cả tiến trình vận động của thế giới. Nói tóm lại, ảo thuật không phải là một phương thức để lãnh đạo thế giới, mà đơn giản là những màn trình diễn nhằm mục đích giải trí mà thôi.
    Tuy nhiên, trong một vài năm gần đây, một vài nhà nghiên cứu đã bước đầu nhận ra rằng ảo thuật đại diện cho một cái gì đó cao xa hơn: một sự hiểu biết sâu xa hơn về bộ óc của con người nhưng chưa được khai thác.
    Tại một cuộc hội nghị lớn được tổ chức ở Las Vegas hồi năm ngoái và trên một quyển tạp chí khoa học được phát hành trong thời gian gần đây đã diễn ra một cuộc tranh cãi gay gắt giữa các nhà tâm lý học khi có ý kiến cho rằng các ảo thuật gia càng có thâm niên thì càng khôn ngoan hơn và có thể dễ dàng đánh lừa người khác hơn. Các nhà tâm lý học đã và đang tham gia vào việc nghiên cứu để hiểu biết thêm mọi ngõ ngách của đời sống con người và thế giới xung quanh họ. Qua việc nghiên cứu về cơ chế của các căn bệnh để nắm biết được hoạt động của hệ thống miễn dịch trong cơ thể người, các nhà tâm lí học tin rằng việc nghiên cứu cách mà nhà ảo thuật tài năng làm gián đoạn hệ thống giác quan có thể cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về những mối liên hệ trong hệ thống này. Susana Martinez-Conde – nhà khoa học về thần kinh làm việc tại viện thần kinh học, đồng thời là một cộng tác viên trong công trình nghiên cứu này đã phát biểu trên tờ Nature Reviews Neuroscience tháng trước rằng, “Tôi nghĩ rằng các ảo thuật gia và các nhà thần kinh học đều tập trung vào những vấn đề tương tự nhau. Nhưng điểm khác biệt là trong khi các nhà thần kinh học chỉ mới bắt đầu công việc nghiên cứu trong vài thập kỉ thì các ảo thuật gia đã làm việc này trong suốt hàng thế kỉ, thậm chí là hàng thiên niên kỉ. Những việc mà các nhà ảo thuật gia làm được trước kia chính là những gì mà chúng ta làm ngày nay với những kĩ thuật tinh vi và công nghệ hiện đại”.
    Giống như những gì mà các ảo thuật gia đã biết từ lâu và các nhà thần kinh học đang dần dần khám phá ra, sự nhận thức của con người là một cơ chế phức tạp, đầy những chỗ trống và dễ dàng bị đánh lừa. Sự hợp tác giữa khoa học và ảo thuật còn rất non nớt và những phát hiện chỉ mới dừng lại ở mức cơ bản nhưng lại rất thu hút được sự quan tâm của rất nhiều học giả: hồi tháng Giêng vừa qua, viện hàn lâm khoa học New York đã mời một ảo thuật gia tên là Apollo Robbins đến để trình bày đề tài khoa học về ảo giác, và một nhóm các ảo thuật gia khác cũng đang chuẩn bị cho bài diễn thuyết của mình trong cuộc họp hàng năm của Hiệp hội các nhà khoa học thần kinh.
    Trong khi sự hiểu biết cơ chế tập trung chú ý của bộ não người vẫn còn hạn chế, thì việc nhận thức tốt hơn về cơ chế ấy sẽ đem lại vô số những ứng dụng hữu ích, từ việc lắp đặt những chiếc đồng hồ an toàn hơn cho tới những mẩu quảng cáo hấp dẫn hơn- ngay cả ảo thuật cũng phát triển tốt hơn.
    Thành công của một màn ảo thuật nhiều khi chỉ đơn giản là thu hút sự chú ý của khán giả và làm lệch hướng- chẳng hạn tập trung sự chú ý của khán giả vào tay phải đang khua cây đũa thần, trong khi tay trái lại bí mật giấu quả bóng vào túi quần hay lấy một con bài ra khỏi tay áo. Những màn trình diễn ảo thuật thực sự là một kiệt tác của nghệ thuật đánh lạc hướng: họ đánh lừa ta bằng những màu sắc sặc sỡ và những vật sáng chói. Nhiều nhà ảo thuật khiến khán giả thích thú với màn biểu diễn của họ chỉ với những luồng khói hay những âm thanh thôi miên liên tục được tạo ra khi họ biểu diễn.
    Nhiều năm trước, các nhà khoa học so sánh nhận thức như một cái máy quay phim, có thể tái hiện lại thế giới một cách đầy đủ và chi tiết. Tuy nhiên, trong suốt một thập kỉ qua, ngày càng có nhiều tranh cãi về cách lập luận này. Một trong số những nội dung tranh cãi ấy là: con người có xu hướng không cảm nhận được những gì đang xảy ra ngay trước mắt mình. Daniel Simmons, chuyên viên tâm lý tại trường đại học Illinois, vào cuối thập niên 1990 đã thực hiện hàng loạt những nghiên cứu, mà đến nay vẫn còn rất nổi tiếng, để chứng minh cho sự hạn chế về khả năng trì nhận này. Trong một nghiên cứu của mình, ông đã chỉ ra rằng một số người khi được một người khác bắt chuyện để hỏi đường, trong quá trình trò chuyện với nhau, ông đã đánh tráo người hỏi đường bằng một người khác và tiếp tục nói chuyện, thì chỉ có một nửa trường hợp phát hiện được sự đánh tráo.
    Trong một nghiên cứu khác, một nhóm người được xem một đoạn băng của hai đội bóng, một đội mặc áo màu đen và một đội mặc áo màu trắng, lần lượt thực hiện những pha chuyền bóng với một quả bóng rổ. Yêu cầu dành cho nhóm người này là theo dõi và đếm số lượt chuyền bóng mà một trong hai đội đã thực hiện. Sau khi xem xong, một nửa trong số họ nói rằng họ phát hiện trong đoạn phim ấy có một người phụ nữ mặc bộ đồ hình con khỉ gorila đi ngang qua, dừng lại và vỗ ngực. Từ những cuộc thí nghiệm như thế, trong một thập kỷ qua đã có những cách nhìn nhận mới, khả năng tri nhận của đôi mắt không giống một máy camera, mà nó giống một tia sáng vụt qua khung cảnh lờ mờ. Trong một khoảnh khắc nào đó, ta chỉ có thể thấy được những chi tiết và màu sắc nằm trong một khoảng nhỏ mà ta đang tập trung vào. Phần hình ảnh còn lại mà ta có được là nhờ sự kết hợp từ trí nhớ, sự phán đoán và hình ảnh từ thực tế. Chúng ta cảm nhận thế giới xung quanh chúng ta bằng cách xây dựng nó một cách tích cực và liên tục.
    Theo Ronald A. Rensink, một giáo sư trong lĩnh vực khoa học máy tính và tâm lý tại trường Đại học Bristish Colombia, đồng thời là đồng tác giả bài báo về ảo thuật và tâm lý được đăng trong mục những xu hướng và khoa học tri nhận cho rằng: “Hình ảnh của thế giới trong bộ óc của chúng ta là một thế giới ảo. Đó là một ảo giác thông minh”.
    Lợi ích của những lối tri nhận này là cho phép chúng ta tạo ra những hình ảnh cực kì đầy đủ về thế giới xung quanh mặc dù độ phân giải của hệ thần kinh hai mắt chúng ta chỉ ngang bằng với độ phân giải của một chiếc camera gắn trên những chiếc điện thoại di động. Chẳng hạn như chúng ta không cần phải phí thời gian để quan sát tỉ mỉ từng chiếc xe hơi trên đường cao tốc chỉ để biết chắc rằng đó có thực sự là những chiếc xe hơi hay chỉ để biết liệu chúng đang chạy hay không – bộ não của chúng ta có thể dễ dàng nhận ra được những điều đó nhờ hình ảnh của hàng ngàn chiếc xe mà chúng ta đã từng nhìn thấy trong đời.
    Teller, một thành viên trong bộ đôi nổi tiếng Penn & Teller và là một trong năm ảo thuật gia đồng tác giả công trình nghiên cứu Nature Reviews Neuroscience, nói : “Trong ảo thuật, các ảo thuật gia có xu hướng nắm lấy những yếu tố làm cho họ trở thành những người thông thái và đồng thời lật tẩy những yếu tố chống lại họ”.
    Sự đánh lạc hướng được hiểu là công cụ đơn giản nhất của các nhà ảo thuật – chúng ta không nhìn thấy một thứ gì đó đơn giản là bởi vì ta đang không nhìn vào nó. Martinez-Conde đặc biệt hứng thú với nghệ thuật đánh lạc hướng và những thao tác nhất định được sử dụng để thu hút và giữ sự chú ý của chúng ta. Robbins, ảo thuật gia biểu diễn màn móc túi và cũng là đồng tác giả công trình nghiên cứu Nature Neuroscience, đã phát hiện ra rằng những cử động theo đường cong sẽ thu hút sự chú ý dễ dàng hơn là những cử động theo đường thẳng: “Những cử động theo đường cong sẽ thu hút sự chú ý nhiều hơn. Tôi sử dụng cách ấy khi không còn một xu nào dính túi”.
    Martinez-Conde rất hứng thú với phát hiện đặc biệt này và cho rằng sự thu hút nhất định nào đó của những chuyển động cong có thể là bởi vì người xem quan sát chúng không dễ như khi quan sát những chuyển động nhanh và thẳng. Sự thật là những chuyển động cong thường đòi hỏi nhiều sự chú ý và tập trung cao độ hơn.
    Tuy nhiên, những hiệu quả khác của phát hiện còn đáng ngạc nhiên hơn. Nghiên cứu về đường đi của mắt cho thấy rằng chủ thể có thể nhìn thấy đối tượng mà không cần phải nhìn trực tiếp vào đối tượng ấy. Nạn nhân còn sống sót sau các vụ tai nạn ô tô cũng công nhận điều này. Hoặc, với một kích thích nhỏ nào đó, một người có thể nhìn thấy một vật gì đó trong khi xung quanh chẳng hề có vật đó.
    Thủ thuật căn bản nhất củà các nhà ảo thuật có thể học được đó là tạo ra ảo giác về sự biến mất của quả bóng. Thủ thuật ấy như sau: anh ta liên tục ném một quả bóng lên không trung rồi bắt lấy nó. Và trong lần ném cuối cùng, quả bóng đột nhiên biến mất. Sự thật là nhà ảo thuật đã diễn kịch trong cú ném cuối cùng bằng cách giấu quả bóng trong tay, trong khi mắt vẫn đang giả vờ chăm chú theo chuyển động đi lên tưởng tượng của quả bóng.
    Kĩ năng này rất dễ hiểu, nhưng bản thân hiện tượng này thì không. Nếu làm đúng, thủ thuật này sẽ khiến người xem tưởng rằng quả bóng bay lên trong không trung và biến mất ở đường bay cuối cùng ấy. Như Rensink đã chỉ ra, đó là một thứ gì đó không phải chỉ đơn giản là đánh lạc hướng khán giả – mà đó là một cách giải thích tại sao việc đưa não của chúng ta vào trạng thái ảo giác lại dễ dàng đến thế. Các nhà khoa học tri nhận cũng chưa tìm ra được một lời giải thích nào thấu đáo cho hiện tượng này. Hiện tại, các nhà khoa học tri nhận nghiên cứu về lĩnh vực ảo thuật cũng chỉ dám giới hạn nghiên cứu của mình trong những ảnh hưởng đơn giản và vấn đề cơ bản được đặt ra. Rensink đã phác thảo ra một bảng tuần hoàn các hiệu ứng của sự chú ý bao gồm: những phương pháp để thu hút sự chú ý, phương pháp đánh lạc hướng và phương pháp làm cho người xem không nhìn thấy được những gì đang hiện hữu ngay trước mắt họ. Ông cho rằng bảng phân loại này không chỉ có ích cho các ảo thuật gia. Việc kiểm soát và điều khiển sự chú ý cũng rất cần thiết cho nhiều lĩnh vực khác. Buồng lái của phi công và những biển hiệu trên đường cũng cần được thiết kế chuẩn hơn, các vệ sĩ nên được đào tạo để có tính cảnh giác cao hơn, những đồ thị trên máy vi tính nên được làm cho sinh động hơn, việc giảng dạy cũng nên ít tính bắt buộc hơn. Tuy nhiên, cho dù công trình nghiên cứu này không được thông qua đi chăng nữa thì những nguyên tắc này vẫn có giá trị trong việc nhận biết được những khoảng trắng về những giới hạn trong nhận thức của con người. Cũng giống như những khán giả của Robert Houdin đã từng bị thôi miên và bị làm cho hoảng sợ chỉ vì một thanh nam châm, ngày nay chúng ta cũng dễ dàng bị đánh lừa và thậm chí là cũng có thể rơi vào tình cảnh giống như thế, nếu như chúng ta không có được những hiểu biết này.
    Daniel Simons – một nhà khoa học tri thức, nói: “Vấn đề cốt yếu là phải hiểu rõ những giới hạn của bản thân mình. Thực tế, hầu hết mọi người đều không hiểu được rằng việc kéo dài một cuộc điện thoại trong khi đang lái xe sẽ gây những ảnh hưởng không tốt đến việc lái xe”.
    Theo như Teller, ảo thuật đóng vai trò như một vật gợi nhớ tốt hơn bất cứ loại hình nào khác. Điều đó giải thích tại sao mặc dù những thủ thuật trong ảo thuật là tương đối tầm thường nhưng lại lại có thể khiến khán giả kinh ngạc và thích thú đến thế.
    Ông cho rằng: “Vấn đề căn bản mà chúng ta làm mỗi ngày là xác định xem đâu là thực tại và hiểu được những tín hiệu đập vào mắt ta có ý nghĩa gì. Chúng ta nói: “Đó là một cái hàng rào, tôi không được phép bước chân qua nó”, hay: “Kìa, hình như có một chiếc xe ôtô đang chạy đằng kia phải không? Tôi có thể quan sát được những gì? Ồ không, đó chỉ là một chiếc xe đạp mà thôi”.
    Điều gì khiến con người đam mê với ảo thuật? Ông tin rằng, đó chỉ là vì sự hiểu biết về nó còn mập mờ. “Người ta nhận ra rằng, cách tốt nhất để hiểu được sức mạnh của những mánh khoé trong ảo thuật là tự mình làm được những điều đó”.

    một số dụng cụ truyền thống trong ảo thuật

    + Bài tây  dụng cụ lâu đời nhất
    Trong tất cả các loại bài, bài 52 lá mà ta thường gọi là bài Tây, đúng là phổ biến nhất trên thế giới. Cho tới nay chưa có sách vở nào nói rõ về nguồn gốc của bộ bài này. Có giả thiết cho rằng chính người Trung Quốc chơi bài Tây đầu tiên, còn một số khác lại cho rằng chính người Ba Tư đã phát minh ra nó. Từ năm 1127, người Trung Quốc từng biết chơi các quân bài bằng gỗ được nhuộm nhiều màu, dù các hình vẽ còn đơn giản.
    Ban đầu Bài Tây không phải chỉ có 4 nước. Một số loại bài xưa còn có đến 8 nước hoặc 10 nước và cách đây không lâu lắm người ta còn thử chơi bài Bridge với 5 màu.
    Thú chơi bài từng được đón tiếp nồng nhiệt ở Venise, rồi Tây Ban Nha. Chưa đầy 100 năm sau ở Paris, đã phát sinh ngành công nghiệp sản xuất bài nhằm thỏa mãn đam mê của Vua Pháp Charles VI (1368-1422). Giới vua chúa trong triều đình Pháp thích chơi bài này đến nỗi có một sắc lệnh ban bố cấm giới dân đen không được chơi.
    Đến năm 1480, người Anh bị mê hoặc bởi bộ bài 52 lá. Quốc Hội Anh thấy cần phải nhanh chóng ra lệnh cấm những người hầu và học việc không được chơi bài vào kỳ nghỉ lễ Noel. Đến thế kỷ 16 và 17, bộ bài 52 lá trở nên thông dụng trong tất cả các tầng lớp dân chúng ở Anh. Những người thuộc Hoàng Gia khi ấy, chơi bài suốt nhiều ngày liền với số tiền đặt rất lớn.
    Lúc đầu 4 nước bài có dạng là TIM, CHUÔNG, LÁ và QUẢ SỒI, đến thế kỷ 14 người ta thay thế bằng hình ảnh, TIỀN, CỐC, KIẾM và GẬY. Bốn nước bài này được giữ suốt trong 200 năm và chúng mang đặc tính của thời phong kiến. TIỀN tượng trưng cho giới thương nhân, CỐC cho Nhà Thờ, KIẾM cho giới quân sự và GẬY là cho tầng lớp lao động. Tương tự ba quân bài cao nhất: quân Già tượng trưng cho vua, quân Đầm tượng trưng cho Hoàng Hậu và quân Bồi tượng trưng cho người hầu. Mãi sau này bốn nước bài mới được đổi thành: TIM, CƠ, CÁNH CHUỒN, NGỌN GIÁO (mà ta vẫn quen gọi là CƠ, RÔ, CHUỒN (NHÉP), BÍCH do bắt chước lối phát âm). Tuy vậy, có điều khá lạ là nước Bích không tượng trưng cho giai cấp nông dân hoặc công nhân tức những người nghèo khổ. Có lẽ người ta chọn nước Bích vào thời kỳ mà việc sử dụng Giáo Mác khá phổ biến.
    Thuở ban đầu, CƠ (trái tim) có nghĩa là tâm hồn cao thượng, sự thanh cao; RÔ (ca rô) có nghĩa là sự giàu có, quyền lực của giới thương nhân (Rô hình thoi làm người ta nhớ đến các viên ngói lợp trên các ngôi nhà mà giới thương nhân đến bàn bạc chuyện làm ăn); CHUỒN được xem là tượng trưng cho giới nông dân nhưng thực sự nó chỉ đơn giản thể hiện hình một chiếc lá cánh chuồn.
    Mỗi quân bài BỒI, ĐẦM, GIÀ tượng trưng cho một nhân vật lịch sử có thật. Già Cơ chính là Hoàng Đế Charlemagne (747-814). Đầm Cơ chính là bà Judith mà theo truyền thuyết đã giải thoát dân tộc Judeé khỏi ách bạo tàn của người Assyrien. Bồi Cơ chính là La Hire (1390-1443) người bạn đường thân tín của nữ anh hùng Joan d’Arc. Lai lịch của con đầm Bích vẫn chưa được xác định. Có người cho rằng đó có thể là một bà Hoàng Hậu nào đó của Pháp.
    Trong số các truyền thuyết của bộ bài 52 lá có cả truyền thuyết về lá bài 9 Rô. Trong một thời gian dài, quân bài này đã được gọi là “tai họa của xứ Scottland”. Đã có nhiều lời giải thích về truyền thuyết trên nhưng mọi chuyện vẫn chưa được tỏ rõ lắm. Có giả thiết cho rằng chính trên lá bài 9 Rô, công tước Cumberland (1721-1765) đã viết lệnh tàn sát các tù binh bị thương sau trận Culloden (1746). Một lời giải thích khác nói, trong một kiểu chơi bài do bà Marie, hoàng hậu của xứ Scottland đề xướng, con 9 Rô được xem là quân bài chủ cần tìm kiếm và người dân Scottland thích chơi kiểu bài này đến nỗi nhiều gia đình phải tán gia bại sản và thế là từ đó con số 9 Rô được biết đến dưới tên “tai họa”.
    Khởi đi, bộ bài 52 lá, từng được sử dụng như một thứ tiêu khiển quý phái, giờ đây thú chơi bài đã trở nên rất bình dân và đau đớn thay, nó đã bị người ta làm biến dạng để trở thành một phương tiện sát phạt, cay cú ăn thua nhau tàn nhẫn kinh khiếp. Bao kẻ trắng tay vì bài bạc… bao kẻ tan nát gia đình vì tính “máu mê”… (Đặc biệt, chỉ có một điểm an ủi duy nhất là trong khoảng thời gian từ 1685 đến 1715, ở Canada, các quân bài được dùng làm… tiền để trao đổi).
    Joker là một lá bài đặc biệt có trong những bộ bài hiện đại.
    Một bộ bài thường có hai lá Joker, và hình vẽ trên những lá bài này khác nhau tùy vào nơi phát hành bộ bài. Thông thường, một lá Joker sẽ có màu trắng đen, còn lá còn lại có màu sắc đầy đủ. Có khi, một lá Joker màu đỏ, và lá kia màu đen. Trong những trò cần phải so sánh lá joker với nhau, joker có màu thường mạnh hơn joker trắng đen. Với những lá joker đỏ/đen, mày đỏ được tính là cơ hoặc rô, còn màu đen được dùng thay cho chuồn/pích. Hình trên lá joker thường là một thằng hề.
    Các dùng Joker rất khác nhau. Nhiều trò chơi bài hoàn toàn không dùng đến những lá này; những trò khác, như biến thể 25 lá của Euchre (bài u-cơ), lại xem joker là một trong những lá bài quan trọng nhất trong trò chơi. Thông thường, lá bài này là một lá bài tự do, cho phép nó đại diện nhiều lá khác nhau.
    Người ta tin rằng từ Joker xuất phát từ chữ Jucker, tiếng Alsace của trò Euchre, vì lá bài này được dùng cho trò chơi của gia đình đó. Có cách giải thích khác, nó là sự phối hợp của Jucker và Poker, vì đây là những trò chơi nó được dùng phổ biến nhất.[cần chú thích]
    Lá Joker là một lá bài có thể cực kỳ có lợi, hoặc cực kỳ có hại. Trong trò Euchre nó thường dùng để chỉ Benny, lá bài chủ cao nhất. Trong poker, nó là tự do. Tuy nhiên, trong trò Old Maid dành cho trẻ em, lá joker đứng một mình đại diện cho Maid, một lá bài mà ai cũng tránh phải có.
    Lá Joker đôi khi thường đươc ký hiệu là chữ S chồng lên chữ U, nên thường bị hiểu nhầm là ký hiệu gốc của ký hiệu dollar.
    Lá Joker thường bị so sánh với ‘The Fool’ trong Major Arcana của bộ bài Tarot. Chúng có hình dáng và chức năng tương tự; the Fool thường mạnh hơn.
    Quân át (theo cách gọi của dân VN ta) là một trong số các quân bài đặc biệt trong bộ bài 52 lá.
    Trên quân át không ghi số 1 mà ghi chữ A vì đây là viết tắt của Ace – quân át, ngoài ra Ace còn có nghĩa là number one, là nhà vô địch. Bởi thế quân át nắm giữ thuộc tính của từng loại quân bài (HEART, DIAMOND, CLUB, SPADE) và luôn dẫn đầu 12 quân còn lại.
    Ace of Spades, tức Át Bích là quân bài đặc biệt nhất. Tuy Spade có nghĩa là “phần đuôi” bởi các quân Bích thường được xếp bên dưới, nhưng không phải vậy. Biểu tượng Spade trên Át Bích to hơn các biểu tượng khác nhiều và Át Bích được xem là quân bài đại diện cho sức mạnh tối cao và có quyền lực nhất trong tất cả các quân bài, còn quyền lực hơn cả những vị vua và các quân át khác.
    + Ảo thuật vs những chú chim bồ câu vui nhộn 
    với những chú chim nhiều màu sắc. các ảo thuật gia thường dùng tay không biến ra chim hoặc dùng những chiếc khăn lụa biến ra chúng. hay là biến mất chim bồ câu và chim bồ câu đổi màu. Đây là tiết mục ảo thuật hay nhất mọi thời đại và có số lượng người xem và diễn nhiều nhất trên thế giới
    + Ảo thuật về ô  (dù)
    Đây là một trong những tiết mục ảo thuật đc sử dụng nhiều ở Việt Nam vì các tập luyện đơn giản, độ ảo cao sử dụng những chiếc ô( dù) dễ kiếm nhiều màu sắc. Cũng như bồ câu ảo thuật về ô cũng sử dụng những chiếc khăn, những chiếc gậy để biến ra chúng
     + Đơn giản nhất là về những chiếc khăn tay hay những đồng xu 

    Nhanh tay, lẹ mắt và thu hút sự chú ý của tâm trí => Ảo Thuật

    Nghiên cứu chứng thực rằng, ảo thuật xảy ra chẳng phải ở vị trí đôi mắt ta nhìn mà nằm chính tại nơi tâm trí ta tập trung chú ý tới mới quyết định việc người xem biết được trò phù phép, biến hóa ấy hoàn thành như thế nào hay không mà thôi.
    Theo đó, cái nhìn chòng chọc của khán giả chưa thiết yếu bằng cái chỗ họ đang chú tâm vào; bởi thực tế, hai điều này không buộc phải là một.
    Thường thì đa phần chúng ta chú ý điểm mình nhắm đến, song không cần lúc nào cũng vậy.
    Chẳng hạn, nếu muốn, chúng ta có thể nhìn chằm chằm thẳng băng về phía trước trong khi bản thân lại hướng sự chú ý sang bên cạnh.
    Gustav Kuhn và cộng sự đã cho sinh viên xem một băng hình ảo thuật ngắn có màn trình diễn làm biến mất điếu thuốc lá và bật quẹt lửa.
    Điếu thuốc lá “tiêu tùng” đâu đó khi nhà ảo thuật thả rơi nó trong lòng bàn tay, trong lúc chính ảo thuật gia định hướng sự chú ý của khán giả vào bàn tay kia.
    Đáng ngạc nhiên, báo cáo ghi nhận chuyển động mắt của sinh viên cho thấy, dù có phát hiện điếu thuốc lá rơi hay không (và do đó, biết phương thức tiến hành sự phù phép) cũng chẳng ảnh hưởng tới vị trí định vị của mắt ngay lúc nó rơi.
    Việc chớp nháy mắt hay những chuyển động của mắt suốt thời gian điếu thuốc lá rơi cũng không tương thích.
    Đúng hơn, định vị điểm nhìn của sinh viên sau khi điếu thuốc lá rơi liên quan với việc họ có thấy nó rơi hay không.
    Đặc biệt, những sinh viên nào, sau khi điếu thuốc lá rơi, chuyển động mắt thật nhanh hướng tới bàn tay cầm điếu thuốc lá (bây giờ trống không) thì càng báo cáo mình dễ thấy điếu thuốc lá rơi hơn.
    Lý giải khác: những sinh viên nào, sau khi điếu thuốc lá rơi, liếc nhanh hơn vào bàn tay có điếu thuốc lá đã kịp chuyển điểm thu hút sự chú ý (chưa phải đôi mắt nhìn của họ) thì sẽ thấy đúng lúc điếu thuốc lá rơi.
    Điều này gắn liền với nghiên cứu trước đây phát hiện sự chuyển động mắt hướng tới một vị trí xác định vốn do một sự chuyển đổi chú ý đã đến trước cùng một địa điểm rồi.
    Nghĩa là, để làm trò biến hóa phù phép, nhà ảo thuật xem chừng cần đánh lạc hướng điểm giấu giếm thu hút sự chú ý của khán giả chứ không nhất thiết xử lý vị trí mắt nhìn công khai của khán giả.
    Còn chuyện nhiều sinh viên nhận ra điếu thuốc lá rơi thực chất đã chuyển mắt nhìn từ khuôn mặt sang bàn tay của nhà ảo thuật.
    Họ vẫn tiếp tục nhìn, sau khi điếu thuốc lá rơi, hướng tới bàn tay có điếu thuốc lá nhanh hơn những sinh viên không thấy nó rơi, song thọat tiên là họ nhìn vào khuôn mặt của ảo thuật gia.
    Tuy thế, sự kiện này vẫn nhất quán với lý giải nêu trên, khẳng định cùng với nghiên cứu từng tiến hành rằng, điểm thu hút sự chú ý có thể gồm hai hoặc ba vị trí đã xác định trước khi ta di chuyển mắt.
    Xin nói thêm, khi người ta trải qua trạng thái thôi miên mắt mở to tỉnh thức, họ có thể nhìn mà không thấy vì sự chú ý của họ xem ra đã chiếu rọi sâu thẳm xuyên vào nội tâm mình, cảm nhận và nghe thấy các thực tại đầy hình ảnh tưởng tượng.
    Khi người ta lo lắng cũng xuất hiện điều tương tự, không phải đang “ở đây” mà xa đến mức họ đặt để sự quan tâm, chú ý của bản thân.
    Đối tượng lo lắng kinh niên, mãi không thôi có thể nhận ra cảm giác khuây khỏa, dịu bớt căng thẳng vào lúc một tình huống khẩn cấp xảy đến, bởi vì tình huống ấy khiến họ chú tâm ngay lập tức vào thực tại giúp tạo nên cảm giác sống động trở lại.
    Lời cuối, lần tới nếu bạn muốn phát hiện mẹo mực lấp liếm thì cần phải thật lưu tâm chú ý cách thức nhà ảo thuật định hướng tâm trí chứ không phải mắt nhìn của bạn đâu nhé!

    Mẹo nhỏ để học ảo thuật thành công

    Một số trò ảo thuật cần sự phức tạp đến nỗi thật khó biết hiệu ứng là gì và cái gì dẫn tới hiệu ứng.
    Ý ở đây là khi xem hướng dẫn mà bạn vẫn ko hiểu đang lam gì. Vì vậy, đây là một số mẹo nhỏ cho việc học tập ảo thuật hiệu quả hơn.
    - Trước tiên bạn phải nhìn lại thổng quan về trò diễn
    Mục đích là để thấy được toàn bộ trò diễn trong cái nhìn tổng quát, trước khi bạn bắt đầu luyện tập. Hãy nhớ toạn bộ những gì phải phải trong trò diễn. Một số sách viết hướng dẫn đọc rất khó để nhớ, và hiểu. Cố gắng hình dung trò diễn với suy nghĩ của 1 khán giả, và tưởng tượng hiệu ứng của trick.
    -Thông thường vấn để thường xuất hiện khi bạn học các động tác. Rất dễ để quên nhưng gì bạn đang làm. Vì vậy, cố gắng để hiểu được mục đích của động tác đó. Hãy tự đặt câu hỏi cho bạn : Mục tiêu của động tác này là gì?
    - Nó là dễ dàng hơn nhiều để làm theo hướng dẫn khi bạn biết được mục đích của nó là gì. Thí dụ, một “double undercut” dùng để control lá bài từ giữa bộ bài lên đầu.
    Ảo thuật thường hướng dẫn bạn từ điểm A đến điểm B
    Vì vậy hãy tìm hiểu trong bạn A và B là gì. (ý ở đây là động tác, từ động tác A qua động tác B)
    - Sau đó ghép tất cả lại với nhau, và bắt đầu tập luyện từ đầu cho đến cuối trò diễn. Để học 1 trò ảo thuật bạn phải tốn thời gian để luyện tập và biểu diễn. Ngay cả với những trò đơn giản bạn cũng phải qua bước này.
    - Bạn cần phải biết trò diễn nhìn như thế nào với con mắt của khán giả. Đồng thời bạn phải chắc chắn rằng khán giả không thấy được bí mật của trò diễn.
    - Luyện tập cho đến khi bạn có thể thực hiện mà không cần quan tâm đến nó như nhịp tim tự đập vậy. Bạn sẽ cảm thấy nó rất đơn giản. Nhưng bạn phải nhớ toàn bộ trò diễn và những gì phải làm, và cứ lập đi lập lại. ( cái này mình bị rùi, hồi đó mới học ảo thuật học 1 trò 10 phút à… ra diễn thì lấp ba lắp bắp, làm cứ suy nghĩ phải làm gì tiếp. Hic, giờ nghĩ lại thấy ngu wa’)
    - Khi diễn thử trước gương còn tốt hơn là quay clip lại. Và khi bạn làm chính bạn ngạc nhiên, thì bạn đã thành công.

    Flourish – Đôi nét và phân loại (nghệ thuật từ đôi tay) Nghệ thuật và thú chơi flou

    Đây là thú chơi được sử dụng nhiều nhất trong ảo thuật vs sự dẻo dai của đôi bàn tay. Và thường được các Ảo thuật gia nữ tại Việt Nam sử dụng


    Với mong muốn đưa nền ảo thuật đi lên 1 tầm cao mới. Nhiều Clb đã tổ chức nhiều hình thức off giao lưu hay hoạt động từ thiện để đưa ảo thuật Việt Nam lan rộng khắc cả nước

    *7 Điều cần biết khi làm ảo thuật

    Phát triển ảo thuật lên 1 tầm cao mới

    Posted at  8:30 PM  |  in  Thú choi Ảo Thuật cần được phát triển  |  Read More»

    Ảo thuật là gì 

    Ảo thuật là nghệ thuật sử dụng một phương pháp, cách thức, đạo cụ, người hỗ trợ ... để khiến cho người xem tin rằng mình đang thấy một điều không thể xuất hiện trong đời thường, một điều tựa như là phép thuật. Mục đích chính của các màn ảo thuật đó chính là giải trí, tạo nên tiếng cười và niềm vui cho người xem. Ảo thuật đòi hỏi người chơi phải có niềm đam mê, quyết tâm, kiên trì tập luyện và quan trong nhất là phải sáng tạo! Ảo thuậtđã được thế giới công nhận là bộ môn nghệ thuật thứ 8 của nhân loại! Ảo thuật được phân loại theo một vài tiêu chí. Dựa vào tính chất của trò diễn, có thể phân loại thành ba dạng: ảo thuật đen, ảo thuật trắng và ảo thuật fakir. Cũng có thể phân loại ảo thuật theo đặc điểm của sân khấu: sân khấu vuông, khán giả xem một mặt; sân khấu tròn, khán giả xem ba hoặc bốn mặt; sân khấu thính phòng, các đạo cụ nhỏ thích hợp với số ít khán giả. Ngoài ra còn có cách phân loại theo cỡ đạo cụ, hình dáng đạo cụ, kiểu biến hóa...[1]
    Các ảo thuật gia không chỉ cần giỏi về kỹ xảo mà còn cần khéo léo, biết cách hấp dẫn khán giả, kết hợp các yếu tố tâm lý...[1]Điều đó cũng đồng nghĩa là một tiết mục ảo thuật hay

    Ảo thuật – Vài điều nên biết

    Ảo thuật hiện này khá phổ biến ở Việt Nam. Tuy nhiên không phải ai cũng biết rõ ảo thuật là gì, ý
    nghĩa, nguồn gốc, mục đích của ảo thuật! Thông qua bài viết này, mình sẽ giới thiệu cho bạn đôi nét về ảo thuật và một số ảo thuật gia nổi tiếng thế giới để bạn có thể nắm rõ hơn và hiểu hơn về bộ môn ảo thuật. Mong rằng ảo thuật sẽ ngày càng phát triển hơn ở Việt Nam, đem đến nhiều tiếng cười, niềm vui và nhiều phép màu hơn cho mọi người!

    Lịch sử phát triển và nguồn gốc của Ảo Thuật 

    Ảo thuật không phải chỉ đơn giản là những thủ thuật – đó là một môn khoa học về việc định hình những gì chúng ta nhìn thấy. Hiện nay, các nhà khoa học đã và đang đào sâu nghiên cứu những vấn đề này. Vậy theo bạn ảo thuật là gì?
    Tháng 12 năm 1856, trước tình hình bạo loạn ngày càng gia tăng, Napoleon III đã phái Jean-Eugene Robert-Houdin đến Angiêri. Robert-Houdin không phải là một tướng tài, cũng chẳng phải nhà ngoại giao giỏi thực sự, ông chỉ là một ảo thuật gia được biết đến như là “cha đẻ” của nền ảo thuật hiện đại. Nhiệm vụ của ông là chống lại các thầy tu Hồi Giáo và các thầy phù thuỷ người Angiêri, những người đã “dùng ma thuật” để thuyết phục người dân Angiêri của thánh Allah chống lại những luật lệ của nước Pháp.
    Robert-Houdin, “cha đẻ” của nền ảo thuật hiện đại đang trình diễn  
    một tiết mục ảo thuật
    Một sĩ quan thực dân Pháp đã tập trung những khán giả là những thủ lĩnh người Ả rập lại để xem Robert-Houdin trình diễn một tiết mục mà ngày nay đã trở nên quen thuộc với khán giả: Từ một chiếc mũ, ông đã lấy ra được những quả đạn súng thần công, ông đưa được những ngọn nến đang cháy ra khỏi môi trường không khí, và với một cái chén bạc hoàn toàn không có gì bên trong ông đã rót ra được hết cốc cà phê này đến cốc cà phê khác.
    Trong cuốn hồi kí của mình, Robert-Houdin kể lại rằng ông đã dùng bùa mê để doạ những tên thủ lĩnh kia. Ông xuất hiện trên sân khấu với một bộ ngực bằng gỗ và một cánh tay bằng kim loại. Sau đó, ông chọn một thanh niên lực lưỡng trong số khán giả đứng xem, nhờ anh ta nâng một cái hộp lên. Người này thực hiện việc đó một cách dễ dàng. Sau đó, bằng những động tác khua tay làm phép, Robert-Houdin đã thông báo cho mọi người rằng sức mạnh của người thanh niên đã bị lấy đi hết. Tiếp theo, ông yêu cầu người thanh niên nắm chặt tay, cầm và thử nhấc cái hộp lên một lần nữa nhưng kết quả là cái hộp không hề nhúc nhích cho dù anh ta đã hết sức cố gắng để nâng nó lên. Sự thật của màn trình diễn này là người trợ lý của Robert-Houdin đã đặt một thanh nam châm cực mạnh ngay dưới sàn của sân khấu. Trong khi đó trên sân khấu, chàng thanh niên tội nghiệp này vẫn đang thở dài thất vọng vì không sao nâng được chiếc hộp. Và rồi sự thất vọng của anh ta chuyển dần thành tuyệt vọng khi trợ lý của Robert-Houdin được ra hiệu truyền luồng xung điện cực mạnh qua cái tay cầm làm cho chàng thanh niên thét lên một tiếng kinh hãi trên sân khấu. Các thủ lĩnh thực sự kinh ngạc, và cuộc nổi loạn bị dập tắt.
    Câu chuyện về tài ngoại giao bằng ảo thuật của Robert-Houdin đã được nhắc đến rất nhiều trong các câu chuyện truyền thuyết về ảo thuật. Đó là trường hợp điển hình duy nhất được ghi chép lại để kể về một ảo thuật gia đã từng làm thay đổi cả tiến trình vận động của thế giới. Nói tóm lại, ảo thuật không phải là một phương thức để lãnh đạo thế giới, mà đơn giản là những màn trình diễn nhằm mục đích giải trí mà thôi.
    Tuy nhiên, trong một vài năm gần đây, một vài nhà nghiên cứu đã bước đầu nhận ra rằng ảo thuật đại diện cho một cái gì đó cao xa hơn: một sự hiểu biết sâu xa hơn về bộ óc của con người nhưng chưa được khai thác.
    Tại một cuộc hội nghị lớn được tổ chức ở Las Vegas hồi năm ngoái và trên một quyển tạp chí khoa học được phát hành trong thời gian gần đây đã diễn ra một cuộc tranh cãi gay gắt giữa các nhà tâm lý học khi có ý kiến cho rằng các ảo thuật gia càng có thâm niên thì càng khôn ngoan hơn và có thể dễ dàng đánh lừa người khác hơn. Các nhà tâm lý học đã và đang tham gia vào việc nghiên cứu để hiểu biết thêm mọi ngõ ngách của đời sống con người và thế giới xung quanh họ. Qua việc nghiên cứu về cơ chế của các căn bệnh để nắm biết được hoạt động của hệ thống miễn dịch trong cơ thể người, các nhà tâm lí học tin rằng việc nghiên cứu cách mà nhà ảo thuật tài năng làm gián đoạn hệ thống giác quan có thể cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về những mối liên hệ trong hệ thống này. Susana Martinez-Conde – nhà khoa học về thần kinh làm việc tại viện thần kinh học, đồng thời là một cộng tác viên trong công trình nghiên cứu này đã phát biểu trên tờ Nature Reviews Neuroscience tháng trước rằng, “Tôi nghĩ rằng các ảo thuật gia và các nhà thần kinh học đều tập trung vào những vấn đề tương tự nhau. Nhưng điểm khác biệt là trong khi các nhà thần kinh học chỉ mới bắt đầu công việc nghiên cứu trong vài thập kỉ thì các ảo thuật gia đã làm việc này trong suốt hàng thế kỉ, thậm chí là hàng thiên niên kỉ. Những việc mà các nhà ảo thuật gia làm được trước kia chính là những gì mà chúng ta làm ngày nay với những kĩ thuật tinh vi và công nghệ hiện đại”.
    Giống như những gì mà các ảo thuật gia đã biết từ lâu và các nhà thần kinh học đang dần dần khám phá ra, sự nhận thức của con người là một cơ chế phức tạp, đầy những chỗ trống và dễ dàng bị đánh lừa. Sự hợp tác giữa khoa học và ảo thuật còn rất non nớt và những phát hiện chỉ mới dừng lại ở mức cơ bản nhưng lại rất thu hút được sự quan tâm của rất nhiều học giả: hồi tháng Giêng vừa qua, viện hàn lâm khoa học New York đã mời một ảo thuật gia tên là Apollo Robbins đến để trình bày đề tài khoa học về ảo giác, và một nhóm các ảo thuật gia khác cũng đang chuẩn bị cho bài diễn thuyết của mình trong cuộc họp hàng năm của Hiệp hội các nhà khoa học thần kinh.
    Trong khi sự hiểu biết cơ chế tập trung chú ý của bộ não người vẫn còn hạn chế, thì việc nhận thức tốt hơn về cơ chế ấy sẽ đem lại vô số những ứng dụng hữu ích, từ việc lắp đặt những chiếc đồng hồ an toàn hơn cho tới những mẩu quảng cáo hấp dẫn hơn- ngay cả ảo thuật cũng phát triển tốt hơn.
    Thành công của một màn ảo thuật nhiều khi chỉ đơn giản là thu hút sự chú ý của khán giả và làm lệch hướng- chẳng hạn tập trung sự chú ý của khán giả vào tay phải đang khua cây đũa thần, trong khi tay trái lại bí mật giấu quả bóng vào túi quần hay lấy một con bài ra khỏi tay áo. Những màn trình diễn ảo thuật thực sự là một kiệt tác của nghệ thuật đánh lạc hướng: họ đánh lừa ta bằng những màu sắc sặc sỡ và những vật sáng chói. Nhiều nhà ảo thuật khiến khán giả thích thú với màn biểu diễn của họ chỉ với những luồng khói hay những âm thanh thôi miên liên tục được tạo ra khi họ biểu diễn.
    Nhiều năm trước, các nhà khoa học so sánh nhận thức như một cái máy quay phim, có thể tái hiện lại thế giới một cách đầy đủ và chi tiết. Tuy nhiên, trong suốt một thập kỉ qua, ngày càng có nhiều tranh cãi về cách lập luận này. Một trong số những nội dung tranh cãi ấy là: con người có xu hướng không cảm nhận được những gì đang xảy ra ngay trước mắt mình. Daniel Simmons, chuyên viên tâm lý tại trường đại học Illinois, vào cuối thập niên 1990 đã thực hiện hàng loạt những nghiên cứu, mà đến nay vẫn còn rất nổi tiếng, để chứng minh cho sự hạn chế về khả năng trì nhận này. Trong một nghiên cứu của mình, ông đã chỉ ra rằng một số người khi được một người khác bắt chuyện để hỏi đường, trong quá trình trò chuyện với nhau, ông đã đánh tráo người hỏi đường bằng một người khác và tiếp tục nói chuyện, thì chỉ có một nửa trường hợp phát hiện được sự đánh tráo.
    Trong một nghiên cứu khác, một nhóm người được xem một đoạn băng của hai đội bóng, một đội mặc áo màu đen và một đội mặc áo màu trắng, lần lượt thực hiện những pha chuyền bóng với một quả bóng rổ. Yêu cầu dành cho nhóm người này là theo dõi và đếm số lượt chuyền bóng mà một trong hai đội đã thực hiện. Sau khi xem xong, một nửa trong số họ nói rằng họ phát hiện trong đoạn phim ấy có một người phụ nữ mặc bộ đồ hình con khỉ gorila đi ngang qua, dừng lại và vỗ ngực. Từ những cuộc thí nghiệm như thế, trong một thập kỷ qua đã có những cách nhìn nhận mới, khả năng tri nhận của đôi mắt không giống một máy camera, mà nó giống một tia sáng vụt qua khung cảnh lờ mờ. Trong một khoảnh khắc nào đó, ta chỉ có thể thấy được những chi tiết và màu sắc nằm trong một khoảng nhỏ mà ta đang tập trung vào. Phần hình ảnh còn lại mà ta có được là nhờ sự kết hợp từ trí nhớ, sự phán đoán và hình ảnh từ thực tế. Chúng ta cảm nhận thế giới xung quanh chúng ta bằng cách xây dựng nó một cách tích cực và liên tục.
    Theo Ronald A. Rensink, một giáo sư trong lĩnh vực khoa học máy tính và tâm lý tại trường Đại học Bristish Colombia, đồng thời là đồng tác giả bài báo về ảo thuật và tâm lý được đăng trong mục những xu hướng và khoa học tri nhận cho rằng: “Hình ảnh của thế giới trong bộ óc của chúng ta là một thế giới ảo. Đó là một ảo giác thông minh”.
    Lợi ích của những lối tri nhận này là cho phép chúng ta tạo ra những hình ảnh cực kì đầy đủ về thế giới xung quanh mặc dù độ phân giải của hệ thần kinh hai mắt chúng ta chỉ ngang bằng với độ phân giải của một chiếc camera gắn trên những chiếc điện thoại di động. Chẳng hạn như chúng ta không cần phải phí thời gian để quan sát tỉ mỉ từng chiếc xe hơi trên đường cao tốc chỉ để biết chắc rằng đó có thực sự là những chiếc xe hơi hay chỉ để biết liệu chúng đang chạy hay không – bộ não của chúng ta có thể dễ dàng nhận ra được những điều đó nhờ hình ảnh của hàng ngàn chiếc xe mà chúng ta đã từng nhìn thấy trong đời.
    Teller, một thành viên trong bộ đôi nổi tiếng Penn & Teller và là một trong năm ảo thuật gia đồng tác giả công trình nghiên cứu Nature Reviews Neuroscience, nói : “Trong ảo thuật, các ảo thuật gia có xu hướng nắm lấy những yếu tố làm cho họ trở thành những người thông thái và đồng thời lật tẩy những yếu tố chống lại họ”.
    Sự đánh lạc hướng được hiểu là công cụ đơn giản nhất của các nhà ảo thuật – chúng ta không nhìn thấy một thứ gì đó đơn giản là bởi vì ta đang không nhìn vào nó. Martinez-Conde đặc biệt hứng thú với nghệ thuật đánh lạc hướng và những thao tác nhất định được sử dụng để thu hút và giữ sự chú ý của chúng ta. Robbins, ảo thuật gia biểu diễn màn móc túi và cũng là đồng tác giả công trình nghiên cứu Nature Neuroscience, đã phát hiện ra rằng những cử động theo đường cong sẽ thu hút sự chú ý dễ dàng hơn là những cử động theo đường thẳng: “Những cử động theo đường cong sẽ thu hút sự chú ý nhiều hơn. Tôi sử dụng cách ấy khi không còn một xu nào dính túi”.
    Martinez-Conde rất hứng thú với phát hiện đặc biệt này và cho rằng sự thu hút nhất định nào đó của những chuyển động cong có thể là bởi vì người xem quan sát chúng không dễ như khi quan sát những chuyển động nhanh và thẳng. Sự thật là những chuyển động cong thường đòi hỏi nhiều sự chú ý và tập trung cao độ hơn.
    Tuy nhiên, những hiệu quả khác của phát hiện còn đáng ngạc nhiên hơn. Nghiên cứu về đường đi của mắt cho thấy rằng chủ thể có thể nhìn thấy đối tượng mà không cần phải nhìn trực tiếp vào đối tượng ấy. Nạn nhân còn sống sót sau các vụ tai nạn ô tô cũng công nhận điều này. Hoặc, với một kích thích nhỏ nào đó, một người có thể nhìn thấy một vật gì đó trong khi xung quanh chẳng hề có vật đó.
    Thủ thuật căn bản nhất củà các nhà ảo thuật có thể học được đó là tạo ra ảo giác về sự biến mất của quả bóng. Thủ thuật ấy như sau: anh ta liên tục ném một quả bóng lên không trung rồi bắt lấy nó. Và trong lần ném cuối cùng, quả bóng đột nhiên biến mất. Sự thật là nhà ảo thuật đã diễn kịch trong cú ném cuối cùng bằng cách giấu quả bóng trong tay, trong khi mắt vẫn đang giả vờ chăm chú theo chuyển động đi lên tưởng tượng của quả bóng.
    Kĩ năng này rất dễ hiểu, nhưng bản thân hiện tượng này thì không. Nếu làm đúng, thủ thuật này sẽ khiến người xem tưởng rằng quả bóng bay lên trong không trung và biến mất ở đường bay cuối cùng ấy. Như Rensink đã chỉ ra, đó là một thứ gì đó không phải chỉ đơn giản là đánh lạc hướng khán giả – mà đó là một cách giải thích tại sao việc đưa não của chúng ta vào trạng thái ảo giác lại dễ dàng đến thế. Các nhà khoa học tri nhận cũng chưa tìm ra được một lời giải thích nào thấu đáo cho hiện tượng này. Hiện tại, các nhà khoa học tri nhận nghiên cứu về lĩnh vực ảo thuật cũng chỉ dám giới hạn nghiên cứu của mình trong những ảnh hưởng đơn giản và vấn đề cơ bản được đặt ra. Rensink đã phác thảo ra một bảng tuần hoàn các hiệu ứng của sự chú ý bao gồm: những phương pháp để thu hút sự chú ý, phương pháp đánh lạc hướng và phương pháp làm cho người xem không nhìn thấy được những gì đang hiện hữu ngay trước mắt họ. Ông cho rằng bảng phân loại này không chỉ có ích cho các ảo thuật gia. Việc kiểm soát và điều khiển sự chú ý cũng rất cần thiết cho nhiều lĩnh vực khác. Buồng lái của phi công và những biển hiệu trên đường cũng cần được thiết kế chuẩn hơn, các vệ sĩ nên được đào tạo để có tính cảnh giác cao hơn, những đồ thị trên máy vi tính nên được làm cho sinh động hơn, việc giảng dạy cũng nên ít tính bắt buộc hơn. Tuy nhiên, cho dù công trình nghiên cứu này không được thông qua đi chăng nữa thì những nguyên tắc này vẫn có giá trị trong việc nhận biết được những khoảng trắng về những giới hạn trong nhận thức của con người. Cũng giống như những khán giả của Robert Houdin đã từng bị thôi miên và bị làm cho hoảng sợ chỉ vì một thanh nam châm, ngày nay chúng ta cũng dễ dàng bị đánh lừa và thậm chí là cũng có thể rơi vào tình cảnh giống như thế, nếu như chúng ta không có được những hiểu biết này.
    Daniel Simons – một nhà khoa học tri thức, nói: “Vấn đề cốt yếu là phải hiểu rõ những giới hạn của bản thân mình. Thực tế, hầu hết mọi người đều không hiểu được rằng việc kéo dài một cuộc điện thoại trong khi đang lái xe sẽ gây những ảnh hưởng không tốt đến việc lái xe”.
    Theo như Teller, ảo thuật đóng vai trò như một vật gợi nhớ tốt hơn bất cứ loại hình nào khác. Điều đó giải thích tại sao mặc dù những thủ thuật trong ảo thuật là tương đối tầm thường nhưng lại lại có thể khiến khán giả kinh ngạc và thích thú đến thế.
    Ông cho rằng: “Vấn đề căn bản mà chúng ta làm mỗi ngày là xác định xem đâu là thực tại và hiểu được những tín hiệu đập vào mắt ta có ý nghĩa gì. Chúng ta nói: “Đó là một cái hàng rào, tôi không được phép bước chân qua nó”, hay: “Kìa, hình như có một chiếc xe ôtô đang chạy đằng kia phải không? Tôi có thể quan sát được những gì? Ồ không, đó chỉ là một chiếc xe đạp mà thôi”.
    Điều gì khiến con người đam mê với ảo thuật? Ông tin rằng, đó chỉ là vì sự hiểu biết về nó còn mập mờ. “Người ta nhận ra rằng, cách tốt nhất để hiểu được sức mạnh của những mánh khoé trong ảo thuật là tự mình làm được những điều đó”.Ảo thuật không phải chỉ đơn giản là những thủ thuật – đó là một môn khoa học về việc định hình những gì chúng ta nhìn thấy. Hiện nay, các nhà khoa học đã và đang đào sâu nghiên cứu những vấn đề này. Vậy theo bạn ảo thuật là gì?
    Tháng 12 năm 1856, trước tình hình bạo loạn ngày càng gia tăng, Napoleon III đã phái Jean-Eugene Robert-Houdin đến Angiêri. Robert-Houdin không phải là một tướng tài, cũng chẳng phải nhà ngoại giao giỏi thực sự, ông chỉ là một ảo thuật gia được biết đến như là “cha đẻ” của nền ảo thuật hiện đại. Nhiệm vụ của ông là chống lại các thầy tu Hồi Giáo và các thầy phù thuỷ người Angiêri, những người đã “dùng ma thuật” để thuyết phục người dân Angiêri của thánh Allah chống lại những luật lệ của nước Pháp.
    Robert-Houdin, “cha đẻ” của nền ảo thuật hiện đại đang trình diễn
    một tiết mục ảo thuật
    Một sĩ quan thực dân Pháp đã tập trung những khán giả là những thủ lĩnh người Ả rập lại để xem Robert-Houdin trình diễn một tiết mục mà ngày nay đã trở nên quen thuộc với khán giả: Từ một chiếc mũ, ông đã lấy ra được những quả đạn súng thần công, ông đưa được những ngọn nến đang cháy ra khỏi môi trường không khí, và với một cái chén bạc hoàn toàn không có gì bên trong ông đã rót ra được hết cốc cà phê này đến cốc cà phê khác.
    Trong cuốn hồi kí của mình, Robert-Houdin kể lại rằng ông đã dùng bùa mê để doạ những tên thủ lĩnh kia. Ông xuất hiện trên sân khấu với một bộ ngực bằng gỗ và một cánh tay bằng kim loại. Sau đó, ông chọn một thanh niên lực lưỡng trong số khán giả đứng xem, nhờ anh ta nâng một cái hộp lên. Người này thực hiện việc đó một cách dễ dàng. Sau đó, bằng những động tác khua tay làm phép, Robert-Houdin đã thông báo cho mọi người rằng sức mạnh của người thanh niên đã bị lấy đi hết. Tiếp theo, ông yêu cầu người thanh niên nắm chặt tay, cầm và thử nhấc cái hộp lên một lần nữa nhưng kết quả là cái hộp không hề nhúc nhích cho dù anh ta đã hết sức cố gắng để nâng nó lên. Sự thật của màn trình diễn này là người trợ lý của Robert-Houdin đã đặt một thanh nam châm cực mạnh ngay dưới sàn của sân khấu. Trong khi đó trên sân khấu, chàng thanh niên tội nghiệp này vẫn đang thở dài thất vọng vì không sao nâng được chiếc hộp. Và rồi sự thất vọng của anh ta chuyển dần thành tuyệt vọng khi trợ lý của Robert-Houdin được ra hiệu truyền luồng xung điện cực mạnh qua cái tay cầm làm cho chàng thanh niên thét lên một tiếng kinh hãi trên sân khấu. Các thủ lĩnh thực sự kinh ngạc, và cuộc nổi loạn bị dập tắt.
    Câu chuyện về tài ngoại giao bằng ảo thuật của Robert-Houdin đã được nhắc đến rất nhiều trong các câu chuyện truyền thuyết về ảo thuật. Đó là trường hợp điển hình duy nhất được ghi chép lại để kể về một ảo thuật gia đã từng làm thay đổi cả tiến trình vận động của thế giới. Nói tóm lại, ảo thuật không phải là một phương thức để lãnh đạo thế giới, mà đơn giản là những màn trình diễn nhằm mục đích giải trí mà thôi.
    Tuy nhiên, trong một vài năm gần đây, một vài nhà nghiên cứu đã bước đầu nhận ra rằng ảo thuật đại diện cho một cái gì đó cao xa hơn: một sự hiểu biết sâu xa hơn về bộ óc của con người nhưng chưa được khai thác.
    Tại một cuộc hội nghị lớn được tổ chức ở Las Vegas hồi năm ngoái và trên một quyển tạp chí khoa học được phát hành trong thời gian gần đây đã diễn ra một cuộc tranh cãi gay gắt giữa các nhà tâm lý học khi có ý kiến cho rằng các ảo thuật gia càng có thâm niên thì càng khôn ngoan hơn và có thể dễ dàng đánh lừa người khác hơn. Các nhà tâm lý học đã và đang tham gia vào việc nghiên cứu để hiểu biết thêm mọi ngõ ngách của đời sống con người và thế giới xung quanh họ. Qua việc nghiên cứu về cơ chế của các căn bệnh để nắm biết được hoạt động của hệ thống miễn dịch trong cơ thể người, các nhà tâm lí học tin rằng việc nghiên cứu cách mà nhà ảo thuật tài năng làm gián đoạn hệ thống giác quan có thể cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về những mối liên hệ trong hệ thống này. Susana Martinez-Conde – nhà khoa học về thần kinh làm việc tại viện thần kinh học, đồng thời là một cộng tác viên trong công trình nghiên cứu này đã phát biểu trên tờ Nature Reviews Neuroscience tháng trước rằng, “Tôi nghĩ rằng các ảo thuật gia và các nhà thần kinh học đều tập trung vào những vấn đề tương tự nhau. Nhưng điểm khác biệt là trong khi các nhà thần kinh học chỉ mới bắt đầu công việc nghiên cứu trong vài thập kỉ thì các ảo thuật gia đã làm việc này trong suốt hàng thế kỉ, thậm chí là hàng thiên niên kỉ. Những việc mà các nhà ảo thuật gia làm được trước kia chính là những gì mà chúng ta làm ngày nay với những kĩ thuật tinh vi và công nghệ hiện đại”.
    Giống như những gì mà các ảo thuật gia đã biết từ lâu và các nhà thần kinh học đang dần dần khám phá ra, sự nhận thức của con người là một cơ chế phức tạp, đầy những chỗ trống và dễ dàng bị đánh lừa. Sự hợp tác giữa khoa học và ảo thuật còn rất non nớt và những phát hiện chỉ mới dừng lại ở mức cơ bản nhưng lại rất thu hút được sự quan tâm của rất nhiều học giả: hồi tháng Giêng vừa qua, viện hàn lâm khoa học New York đã mời một ảo thuật gia tên là Apollo Robbins đến để trình bày đề tài khoa học về ảo giác, và một nhóm các ảo thuật gia khác cũng đang chuẩn bị cho bài diễn thuyết của mình trong cuộc họp hàng năm của Hiệp hội các nhà khoa học thần kinh.
    Trong khi sự hiểu biết cơ chế tập trung chú ý của bộ não người vẫn còn hạn chế, thì việc nhận thức tốt hơn về cơ chế ấy sẽ đem lại vô số những ứng dụng hữu ích, từ việc lắp đặt những chiếc đồng hồ an toàn hơn cho tới những mẩu quảng cáo hấp dẫn hơn- ngay cả ảo thuật cũng phát triển tốt hơn.
    Thành công của một màn ảo thuật nhiều khi chỉ đơn giản là thu hút sự chú ý của khán giả và làm lệch hướng- chẳng hạn tập trung sự chú ý của khán giả vào tay phải đang khua cây đũa thần, trong khi tay trái lại bí mật giấu quả bóng vào túi quần hay lấy một con bài ra khỏi tay áo. Những màn trình diễn ảo thuật thực sự là một kiệt tác của nghệ thuật đánh lạc hướng: họ đánh lừa ta bằng những màu sắc sặc sỡ và những vật sáng chói. Nhiều nhà ảo thuật khiến khán giả thích thú với màn biểu diễn của họ chỉ với những luồng khói hay những âm thanh thôi miên liên tục được tạo ra khi họ biểu diễn.
    Nhiều năm trước, các nhà khoa học so sánh nhận thức như một cái máy quay phim, có thể tái hiện lại thế giới một cách đầy đủ và chi tiết. Tuy nhiên, trong suốt một thập kỉ qua, ngày càng có nhiều tranh cãi về cách lập luận này. Một trong số những nội dung tranh cãi ấy là: con người có xu hướng không cảm nhận được những gì đang xảy ra ngay trước mắt mình. Daniel Simmons, chuyên viên tâm lý tại trường đại học Illinois, vào cuối thập niên 1990 đã thực hiện hàng loạt những nghiên cứu, mà đến nay vẫn còn rất nổi tiếng, để chứng minh cho sự hạn chế về khả năng trì nhận này. Trong một nghiên cứu của mình, ông đã chỉ ra rằng một số người khi được một người khác bắt chuyện để hỏi đường, trong quá trình trò chuyện với nhau, ông đã đánh tráo người hỏi đường bằng một người khác và tiếp tục nói chuyện, thì chỉ có một nửa trường hợp phát hiện được sự đánh tráo.
    Trong một nghiên cứu khác, một nhóm người được xem một đoạn băng của hai đội bóng, một đội mặc áo màu đen và một đội mặc áo màu trắng, lần lượt thực hiện những pha chuyền bóng với một quả bóng rổ. Yêu cầu dành cho nhóm người này là theo dõi và đếm số lượt chuyền bóng mà một trong hai đội đã thực hiện. Sau khi xem xong, một nửa trong số họ nói rằng họ phát hiện trong đoạn phim ấy có một người phụ nữ mặc bộ đồ hình con khỉ gorila đi ngang qua, dừng lại và vỗ ngực. Từ những cuộc thí nghiệm như thế, trong một thập kỷ qua đã có những cách nhìn nhận mới, khả năng tri nhận của đôi mắt không giống một máy camera, mà nó giống một tia sáng vụt qua khung cảnh lờ mờ. Trong một khoảnh khắc nào đó, ta chỉ có thể thấy được những chi tiết và màu sắc nằm trong một khoảng nhỏ mà ta đang tập trung vào. Phần hình ảnh còn lại mà ta có được là nhờ sự kết hợp từ trí nhớ, sự phán đoán và hình ảnh từ thực tế. Chúng ta cảm nhận thế giới xung quanh chúng ta bằng cách xây dựng nó một cách tích cực và liên tục.
    Theo Ronald A. Rensink, một giáo sư trong lĩnh vực khoa học máy tính và tâm lý tại trường Đại học Bristish Colombia, đồng thời là đồng tác giả bài báo về ảo thuật và tâm lý được đăng trong mục những xu hướng và khoa học tri nhận cho rằng: “Hình ảnh của thế giới trong bộ óc của chúng ta là một thế giới ảo. Đó là một ảo giác thông minh”.
    Lợi ích của những lối tri nhận này là cho phép chúng ta tạo ra những hình ảnh cực kì đầy đủ về thế giới xung quanh mặc dù độ phân giải của hệ thần kinh hai mắt chúng ta chỉ ngang bằng với độ phân giải của một chiếc camera gắn trên những chiếc điện thoại di động. Chẳng hạn như chúng ta không cần phải phí thời gian để quan sát tỉ mỉ từng chiếc xe hơi trên đường cao tốc chỉ để biết chắc rằng đó có thực sự là những chiếc xe hơi hay chỉ để biết liệu chúng đang chạy hay không – bộ não của chúng ta có thể dễ dàng nhận ra được những điều đó nhờ hình ảnh của hàng ngàn chiếc xe mà chúng ta đã từng nhìn thấy trong đời.
    Teller, một thành viên trong bộ đôi nổi tiếng Penn & Teller và là một trong năm ảo thuật gia đồng tác giả công trình nghiên cứu Nature Reviews Neuroscience, nói : “Trong ảo thuật, các ảo thuật gia có xu hướng nắm lấy những yếu tố làm cho họ trở thành những người thông thái và đồng thời lật tẩy những yếu tố chống lại họ”.
    Sự đánh lạc hướng được hiểu là công cụ đơn giản nhất của các nhà ảo thuật – chúng ta không nhìn thấy một thứ gì đó đơn giản là bởi vì ta đang không nhìn vào nó. Martinez-Conde đặc biệt hứng thú với nghệ thuật đánh lạc hướng và những thao tác nhất định được sử dụng để thu hút và giữ sự chú ý của chúng ta. Robbins, ảo thuật gia biểu diễn màn móc túi và cũng là đồng tác giả công trình nghiên cứu Nature Neuroscience, đã phát hiện ra rằng những cử động theo đường cong sẽ thu hút sự chú ý dễ dàng hơn là những cử động theo đường thẳng: “Những cử động theo đường cong sẽ thu hút sự chú ý nhiều hơn. Tôi sử dụng cách ấy khi không còn một xu nào dính túi”.
    Martinez-Conde rất hứng thú với phát hiện đặc biệt này và cho rằng sự thu hút nhất định nào đó của những chuyển động cong có thể là bởi vì người xem quan sát chúng không dễ như khi quan sát những chuyển động nhanh và thẳng. Sự thật là những chuyển động cong thường đòi hỏi nhiều sự chú ý và tập trung cao độ hơn.
    Tuy nhiên, những hiệu quả khác của phát hiện còn đáng ngạc nhiên hơn. Nghiên cứu về đường đi của mắt cho thấy rằng chủ thể có thể nhìn thấy đối tượng mà không cần phải nhìn trực tiếp vào đối tượng ấy. Nạn nhân còn sống sót sau các vụ tai nạn ô tô cũng công nhận điều này. Hoặc, với một kích thích nhỏ nào đó, một người có thể nhìn thấy một vật gì đó trong khi xung quanh chẳng hề có vật đó.
    Thủ thuật căn bản nhất củà các nhà ảo thuật có thể học được đó là tạo ra ảo giác về sự biến mất của quả bóng. Thủ thuật ấy như sau: anh ta liên tục ném một quả bóng lên không trung rồi bắt lấy nó. Và trong lần ném cuối cùng, quả bóng đột nhiên biến mất. Sự thật là nhà ảo thuật đã diễn kịch trong cú ném cuối cùng bằng cách giấu quả bóng trong tay, trong khi mắt vẫn đang giả vờ chăm chú theo chuyển động đi lên tưởng tượng của quả bóng.
    Kĩ năng này rất dễ hiểu, nhưng bản thân hiện tượng này thì không. Nếu làm đúng, thủ thuật này sẽ khiến người xem tưởng rằng quả bóng bay lên trong không trung và biến mất ở đường bay cuối cùng ấy. Như Rensink đã chỉ ra, đó là một thứ gì đó không phải chỉ đơn giản là đánh lạc hướng khán giả – mà đó là một cách giải thích tại sao việc đưa não của chúng ta vào trạng thái ảo giác lại dễ dàng đến thế. Các nhà khoa học tri nhận cũng chưa tìm ra được một lời giải thích nào thấu đáo cho hiện tượng này. Hiện tại, các nhà khoa học tri nhận nghiên cứu về lĩnh vực ảo thuật cũng chỉ dám giới hạn nghiên cứu của mình trong những ảnh hưởng đơn giản và vấn đề cơ bản được đặt ra. Rensink đã phác thảo ra một bảng tuần hoàn các hiệu ứng của sự chú ý bao gồm: những phương pháp để thu hút sự chú ý, phương pháp đánh lạc hướng và phương pháp làm cho người xem không nhìn thấy được những gì đang hiện hữu ngay trước mắt họ. Ông cho rằng bảng phân loại này không chỉ có ích cho các ảo thuật gia. Việc kiểm soát và điều khiển sự chú ý cũng rất cần thiết cho nhiều lĩnh vực khác. Buồng lái của phi công và những biển hiệu trên đường cũng cần được thiết kế chuẩn hơn, các vệ sĩ nên được đào tạo để có tính cảnh giác cao hơn, những đồ thị trên máy vi tính nên được làm cho sinh động hơn, việc giảng dạy cũng nên ít tính bắt buộc hơn. Tuy nhiên, cho dù công trình nghiên cứu này không được thông qua đi chăng nữa thì những nguyên tắc này vẫn có giá trị trong việc nhận biết được những khoảng trắng về những giới hạn trong nhận thức của con người. Cũng giống như những khán giả của Robert Houdin đã từng bị thôi miên và bị làm cho hoảng sợ chỉ vì một thanh nam châm, ngày nay chúng ta cũng dễ dàng bị đánh lừa và thậm chí là cũng có thể rơi vào tình cảnh giống như thế, nếu như chúng ta không có được những hiểu biết này.
    Daniel Simons – một nhà khoa học tri thức, nói: “Vấn đề cốt yếu là phải hiểu rõ những giới hạn của bản thân mình. Thực tế, hầu hết mọi người đều không hiểu được rằng việc kéo dài một cuộc điện thoại trong khi đang lái xe sẽ gây những ảnh hưởng không tốt đến việc lái xe”.
    Theo như Teller, ảo thuật đóng vai trò như một vật gợi nhớ tốt hơn bất cứ loại hình nào khác. Điều đó giải thích tại sao mặc dù những thủ thuật trong ảo thuật là tương đối tầm thường nhưng lại lại có thể khiến khán giả kinh ngạc và thích thú đến thế.
    Ông cho rằng: “Vấn đề căn bản mà chúng ta làm mỗi ngày là xác định xem đâu là thực tại và hiểu được những tín hiệu đập vào mắt ta có ý nghĩa gì. Chúng ta nói: “Đó là một cái hàng rào, tôi không được phép bước chân qua nó”, hay: “Kìa, hình như có một chiếc xe ôtô đang chạy đằng kia phải không? Tôi có thể quan sát được những gì? Ồ không, đó chỉ là một chiếc xe đạp mà thôi”.
    Điều gì khiến con người đam mê với ảo thuật? Ông tin rằng, đó chỉ là vì sự hiểu biết về nó còn mập mờ. “Người ta nhận ra rằng, cách tốt nhất để hiểu được sức mạnh của những mánh khoé trong ảo thuật là tự mình làm được những điều đó”.

    một số dụng cụ truyền thống trong ảo thuật

    + Bài tây  dụng cụ lâu đời nhất
    Trong tất cả các loại bài, bài 52 lá mà ta thường gọi là bài Tây, đúng là phổ biến nhất trên thế giới. Cho tới nay chưa có sách vở nào nói rõ về nguồn gốc của bộ bài này. Có giả thiết cho rằng chính người Trung Quốc chơi bài Tây đầu tiên, còn một số khác lại cho rằng chính người Ba Tư đã phát minh ra nó. Từ năm 1127, người Trung Quốc từng biết chơi các quân bài bằng gỗ được nhuộm nhiều màu, dù các hình vẽ còn đơn giản.
    Ban đầu Bài Tây không phải chỉ có 4 nước. Một số loại bài xưa còn có đến 8 nước hoặc 10 nước và cách đây không lâu lắm người ta còn thử chơi bài Bridge với 5 màu.
    Thú chơi bài từng được đón tiếp nồng nhiệt ở Venise, rồi Tây Ban Nha. Chưa đầy 100 năm sau ở Paris, đã phát sinh ngành công nghiệp sản xuất bài nhằm thỏa mãn đam mê của Vua Pháp Charles VI (1368-1422). Giới vua chúa trong triều đình Pháp thích chơi bài này đến nỗi có một sắc lệnh ban bố cấm giới dân đen không được chơi.
    Đến năm 1480, người Anh bị mê hoặc bởi bộ bài 52 lá. Quốc Hội Anh thấy cần phải nhanh chóng ra lệnh cấm những người hầu và học việc không được chơi bài vào kỳ nghỉ lễ Noel. Đến thế kỷ 16 và 17, bộ bài 52 lá trở nên thông dụng trong tất cả các tầng lớp dân chúng ở Anh. Những người thuộc Hoàng Gia khi ấy, chơi bài suốt nhiều ngày liền với số tiền đặt rất lớn.
    Lúc đầu 4 nước bài có dạng là TIM, CHUÔNG, LÁ và QUẢ SỒI, đến thế kỷ 14 người ta thay thế bằng hình ảnh, TIỀN, CỐC, KIẾM và GẬY. Bốn nước bài này được giữ suốt trong 200 năm và chúng mang đặc tính của thời phong kiến. TIỀN tượng trưng cho giới thương nhân, CỐC cho Nhà Thờ, KIẾM cho giới quân sự và GẬY là cho tầng lớp lao động. Tương tự ba quân bài cao nhất: quân Già tượng trưng cho vua, quân Đầm tượng trưng cho Hoàng Hậu và quân Bồi tượng trưng cho người hầu. Mãi sau này bốn nước bài mới được đổi thành: TIM, CƠ, CÁNH CHUỒN, NGỌN GIÁO (mà ta vẫn quen gọi là CƠ, RÔ, CHUỒN (NHÉP), BÍCH do bắt chước lối phát âm). Tuy vậy, có điều khá lạ là nước Bích không tượng trưng cho giai cấp nông dân hoặc công nhân tức những người nghèo khổ. Có lẽ người ta chọn nước Bích vào thời kỳ mà việc sử dụng Giáo Mác khá phổ biến.
    Thuở ban đầu, CƠ (trái tim) có nghĩa là tâm hồn cao thượng, sự thanh cao; RÔ (ca rô) có nghĩa là sự giàu có, quyền lực của giới thương nhân (Rô hình thoi làm người ta nhớ đến các viên ngói lợp trên các ngôi nhà mà giới thương nhân đến bàn bạc chuyện làm ăn); CHUỒN được xem là tượng trưng cho giới nông dân nhưng thực sự nó chỉ đơn giản thể hiện hình một chiếc lá cánh chuồn.
    Mỗi quân bài BỒI, ĐẦM, GIÀ tượng trưng cho một nhân vật lịch sử có thật. Già Cơ chính là Hoàng Đế Charlemagne (747-814). Đầm Cơ chính là bà Judith mà theo truyền thuyết đã giải thoát dân tộc Judeé khỏi ách bạo tàn của người Assyrien. Bồi Cơ chính là La Hire (1390-1443) người bạn đường thân tín của nữ anh hùng Joan d’Arc. Lai lịch của con đầm Bích vẫn chưa được xác định. Có người cho rằng đó có thể là một bà Hoàng Hậu nào đó của Pháp.
    Trong số các truyền thuyết của bộ bài 52 lá có cả truyền thuyết về lá bài 9 Rô. Trong một thời gian dài, quân bài này đã được gọi là “tai họa của xứ Scottland”. Đã có nhiều lời giải thích về truyền thuyết trên nhưng mọi chuyện vẫn chưa được tỏ rõ lắm. Có giả thiết cho rằng chính trên lá bài 9 Rô, công tước Cumberland (1721-1765) đã viết lệnh tàn sát các tù binh bị thương sau trận Culloden (1746). Một lời giải thích khác nói, trong một kiểu chơi bài do bà Marie, hoàng hậu của xứ Scottland đề xướng, con 9 Rô được xem là quân bài chủ cần tìm kiếm và người dân Scottland thích chơi kiểu bài này đến nỗi nhiều gia đình phải tán gia bại sản và thế là từ đó con số 9 Rô được biết đến dưới tên “tai họa”.
    Khởi đi, bộ bài 52 lá, từng được sử dụng như một thứ tiêu khiển quý phái, giờ đây thú chơi bài đã trở nên rất bình dân và đau đớn thay, nó đã bị người ta làm biến dạng để trở thành một phương tiện sát phạt, cay cú ăn thua nhau tàn nhẫn kinh khiếp. Bao kẻ trắng tay vì bài bạc… bao kẻ tan nát gia đình vì tính “máu mê”… (Đặc biệt, chỉ có một điểm an ủi duy nhất là trong khoảng thời gian từ 1685 đến 1715, ở Canada, các quân bài được dùng làm… tiền để trao đổi).
    Joker là một lá bài đặc biệt có trong những bộ bài hiện đại.
    Một bộ bài thường có hai lá Joker, và hình vẽ trên những lá bài này khác nhau tùy vào nơi phát hành bộ bài. Thông thường, một lá Joker sẽ có màu trắng đen, còn lá còn lại có màu sắc đầy đủ. Có khi, một lá Joker màu đỏ, và lá kia màu đen. Trong những trò cần phải so sánh lá joker với nhau, joker có màu thường mạnh hơn joker trắng đen. Với những lá joker đỏ/đen, mày đỏ được tính là cơ hoặc rô, còn màu đen được dùng thay cho chuồn/pích. Hình trên lá joker thường là một thằng hề.
    Các dùng Joker rất khác nhau. Nhiều trò chơi bài hoàn toàn không dùng đến những lá này; những trò khác, như biến thể 25 lá của Euchre (bài u-cơ), lại xem joker là một trong những lá bài quan trọng nhất trong trò chơi. Thông thường, lá bài này là một lá bài tự do, cho phép nó đại diện nhiều lá khác nhau.
    Người ta tin rằng từ Joker xuất phát từ chữ Jucker, tiếng Alsace của trò Euchre, vì lá bài này được dùng cho trò chơi của gia đình đó. Có cách giải thích khác, nó là sự phối hợp của Jucker và Poker, vì đây là những trò chơi nó được dùng phổ biến nhất.[cần chú thích]
    Lá Joker là một lá bài có thể cực kỳ có lợi, hoặc cực kỳ có hại. Trong trò Euchre nó thường dùng để chỉ Benny, lá bài chủ cao nhất. Trong poker, nó là tự do. Tuy nhiên, trong trò Old Maid dành cho trẻ em, lá joker đứng một mình đại diện cho Maid, một lá bài mà ai cũng tránh phải có.
    Lá Joker đôi khi thường đươc ký hiệu là chữ S chồng lên chữ U, nên thường bị hiểu nhầm là ký hiệu gốc của ký hiệu dollar.
    Lá Joker thường bị so sánh với ‘The Fool’ trong Major Arcana của bộ bài Tarot. Chúng có hình dáng và chức năng tương tự; the Fool thường mạnh hơn.
    Quân át (theo cách gọi của dân VN ta) là một trong số các quân bài đặc biệt trong bộ bài 52 lá.
    Trên quân át không ghi số 1 mà ghi chữ A vì đây là viết tắt của Ace – quân át, ngoài ra Ace còn có nghĩa là number one, là nhà vô địch. Bởi thế quân át nắm giữ thuộc tính của từng loại quân bài (HEART, DIAMOND, CLUB, SPADE) và luôn dẫn đầu 12 quân còn lại.
    Ace of Spades, tức Át Bích là quân bài đặc biệt nhất. Tuy Spade có nghĩa là “phần đuôi” bởi các quân Bích thường được xếp bên dưới, nhưng không phải vậy. Biểu tượng Spade trên Át Bích to hơn các biểu tượng khác nhiều và Át Bích được xem là quân bài đại diện cho sức mạnh tối cao và có quyền lực nhất trong tất cả các quân bài, còn quyền lực hơn cả những vị vua và các quân át khác.
    + Ảo thuật vs những chú chim bồ câu vui nhộn 
    với những chú chim nhiều màu sắc. các ảo thuật gia thường dùng tay không biến ra chim hoặc dùng những chiếc khăn lụa biến ra chúng. hay là biến mất chim bồ câu và chim bồ câu đổi màu. Đây là tiết mục ảo thuật hay nhất mọi thời đại và có số lượng người xem và diễn nhiều nhất trên thế giới
    + Ảo thuật về ô  (dù)
    Đây là một trong những tiết mục ảo thuật đc sử dụng nhiều ở Việt Nam vì các tập luyện đơn giản, độ ảo cao sử dụng những chiếc ô( dù) dễ kiếm nhiều màu sắc. Cũng như bồ câu ảo thuật về ô cũng sử dụng những chiếc khăn, những chiếc gậy để biến ra chúng
     + Đơn giản nhất là về những chiếc khăn tay hay những đồng xu 

    Nhanh tay, lẹ mắt và thu hút sự chú ý của tâm trí => Ảo Thuật

    Nghiên cứu chứng thực rằng, ảo thuật xảy ra chẳng phải ở vị trí đôi mắt ta nhìn mà nằm chính tại nơi tâm trí ta tập trung chú ý tới mới quyết định việc người xem biết được trò phù phép, biến hóa ấy hoàn thành như thế nào hay không mà thôi.
    Theo đó, cái nhìn chòng chọc của khán giả chưa thiết yếu bằng cái chỗ họ đang chú tâm vào; bởi thực tế, hai điều này không buộc phải là một.
    Thường thì đa phần chúng ta chú ý điểm mình nhắm đến, song không cần lúc nào cũng vậy.
    Chẳng hạn, nếu muốn, chúng ta có thể nhìn chằm chằm thẳng băng về phía trước trong khi bản thân lại hướng sự chú ý sang bên cạnh.
    Gustav Kuhn và cộng sự đã cho sinh viên xem một băng hình ảo thuật ngắn có màn trình diễn làm biến mất điếu thuốc lá và bật quẹt lửa.
    Điếu thuốc lá “tiêu tùng” đâu đó khi nhà ảo thuật thả rơi nó trong lòng bàn tay, trong lúc chính ảo thuật gia định hướng sự chú ý của khán giả vào bàn tay kia.
    Đáng ngạc nhiên, báo cáo ghi nhận chuyển động mắt của sinh viên cho thấy, dù có phát hiện điếu thuốc lá rơi hay không (và do đó, biết phương thức tiến hành sự phù phép) cũng chẳng ảnh hưởng tới vị trí định vị của mắt ngay lúc nó rơi.
    Việc chớp nháy mắt hay những chuyển động của mắt suốt thời gian điếu thuốc lá rơi cũng không tương thích.
    Đúng hơn, định vị điểm nhìn của sinh viên sau khi điếu thuốc lá rơi liên quan với việc họ có thấy nó rơi hay không.
    Đặc biệt, những sinh viên nào, sau khi điếu thuốc lá rơi, chuyển động mắt thật nhanh hướng tới bàn tay cầm điếu thuốc lá (bây giờ trống không) thì càng báo cáo mình dễ thấy điếu thuốc lá rơi hơn.
    Lý giải khác: những sinh viên nào, sau khi điếu thuốc lá rơi, liếc nhanh hơn vào bàn tay có điếu thuốc lá đã kịp chuyển điểm thu hút sự chú ý (chưa phải đôi mắt nhìn của họ) thì sẽ thấy đúng lúc điếu thuốc lá rơi.
    Điều này gắn liền với nghiên cứu trước đây phát hiện sự chuyển động mắt hướng tới một vị trí xác định vốn do một sự chuyển đổi chú ý đã đến trước cùng một địa điểm rồi.
    Nghĩa là, để làm trò biến hóa phù phép, nhà ảo thuật xem chừng cần đánh lạc hướng điểm giấu giếm thu hút sự chú ý của khán giả chứ không nhất thiết xử lý vị trí mắt nhìn công khai của khán giả.
    Còn chuyện nhiều sinh viên nhận ra điếu thuốc lá rơi thực chất đã chuyển mắt nhìn từ khuôn mặt sang bàn tay của nhà ảo thuật.
    Họ vẫn tiếp tục nhìn, sau khi điếu thuốc lá rơi, hướng tới bàn tay có điếu thuốc lá nhanh hơn những sinh viên không thấy nó rơi, song thọat tiên là họ nhìn vào khuôn mặt của ảo thuật gia.
    Tuy thế, sự kiện này vẫn nhất quán với lý giải nêu trên, khẳng định cùng với nghiên cứu từng tiến hành rằng, điểm thu hút sự chú ý có thể gồm hai hoặc ba vị trí đã xác định trước khi ta di chuyển mắt.
    Xin nói thêm, khi người ta trải qua trạng thái thôi miên mắt mở to tỉnh thức, họ có thể nhìn mà không thấy vì sự chú ý của họ xem ra đã chiếu rọi sâu thẳm xuyên vào nội tâm mình, cảm nhận và nghe thấy các thực tại đầy hình ảnh tưởng tượng.
    Khi người ta lo lắng cũng xuất hiện điều tương tự, không phải đang “ở đây” mà xa đến mức họ đặt để sự quan tâm, chú ý của bản thân.
    Đối tượng lo lắng kinh niên, mãi không thôi có thể nhận ra cảm giác khuây khỏa, dịu bớt căng thẳng vào lúc một tình huống khẩn cấp xảy đến, bởi vì tình huống ấy khiến họ chú tâm ngay lập tức vào thực tại giúp tạo nên cảm giác sống động trở lại.
    Lời cuối, lần tới nếu bạn muốn phát hiện mẹo mực lấp liếm thì cần phải thật lưu tâm chú ý cách thức nhà ảo thuật định hướng tâm trí chứ không phải mắt nhìn của bạn đâu nhé!

    Mẹo nhỏ để học ảo thuật thành công

    Một số trò ảo thuật cần sự phức tạp đến nỗi thật khó biết hiệu ứng là gì và cái gì dẫn tới hiệu ứng.
    Ý ở đây là khi xem hướng dẫn mà bạn vẫn ko hiểu đang lam gì. Vì vậy, đây là một số mẹo nhỏ cho việc học tập ảo thuật hiệu quả hơn.
    - Trước tiên bạn phải nhìn lại thổng quan về trò diễn
    Mục đích là để thấy được toàn bộ trò diễn trong cái nhìn tổng quát, trước khi bạn bắt đầu luyện tập. Hãy nhớ toạn bộ những gì phải phải trong trò diễn. Một số sách viết hướng dẫn đọc rất khó để nhớ, và hiểu. Cố gắng hình dung trò diễn với suy nghĩ của 1 khán giả, và tưởng tượng hiệu ứng của trick.
    -Thông thường vấn để thường xuất hiện khi bạn học các động tác. Rất dễ để quên nhưng gì bạn đang làm. Vì vậy, cố gắng để hiểu được mục đích của động tác đó. Hãy tự đặt câu hỏi cho bạn : Mục tiêu của động tác này là gì?
    - Nó là dễ dàng hơn nhiều để làm theo hướng dẫn khi bạn biết được mục đích của nó là gì. Thí dụ, một “double undercut” dùng để control lá bài từ giữa bộ bài lên đầu.
    Ảo thuật thường hướng dẫn bạn từ điểm A đến điểm B
    Vì vậy hãy tìm hiểu trong bạn A và B là gì. (ý ở đây là động tác, từ động tác A qua động tác B)
    - Sau đó ghép tất cả lại với nhau, và bắt đầu tập luyện từ đầu cho đến cuối trò diễn. Để học 1 trò ảo thuật bạn phải tốn thời gian để luyện tập và biểu diễn. Ngay cả với những trò đơn giản bạn cũng phải qua bước này.
    - Bạn cần phải biết trò diễn nhìn như thế nào với con mắt của khán giả. Đồng thời bạn phải chắc chắn rằng khán giả không thấy được bí mật của trò diễn.
    - Luyện tập cho đến khi bạn có thể thực hiện mà không cần quan tâm đến nó như nhịp tim tự đập vậy. Bạn sẽ cảm thấy nó rất đơn giản. Nhưng bạn phải nhớ toàn bộ trò diễn và những gì phải làm, và cứ lập đi lập lại. ( cái này mình bị rùi, hồi đó mới học ảo thuật học 1 trò 10 phút à… ra diễn thì lấp ba lắp bắp, làm cứ suy nghĩ phải làm gì tiếp. Hic, giờ nghĩ lại thấy ngu wa’)
    - Khi diễn thử trước gương còn tốt hơn là quay clip lại. Và khi bạn làm chính bạn ngạc nhiên, thì bạn đã thành công.

    Flourish – Đôi nét và phân loại (nghệ thuật từ đôi tay) Nghệ thuật và thú chơi flou

    Đây là thú chơi được sử dụng nhiều nhất trong ảo thuật vs sự dẻo dai của đôi bàn tay. Và thường được các Ảo thuật gia nữ tại Việt Nam sử dụng


    Với mong muốn đưa nền ảo thuật đi lên 1 tầm cao mới. Nhiều Clb đã tổ chức nhiều hình thức off giao lưu hay hoạt động từ thiện để đưa ảo thuật Việt Nam lan rộng khắc cả nước

    *7 Điều cần biết khi làm ảo thuật

    About-Privacy Policy-Contact us
    Copyright © 2013 Aothuat. Blogger Template by Bloggertheme9
    Proudly Powered by Blogger.
    back to top